Thủ vĩ ngâm. No nước uống, thiếu cơm ăn. Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn. Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn. Góc thành Nam, lều một gian. Bài thơ này có thể là làm trong lúc Nguyễn Trãi bị giam lỏng ở Đông Quan theo bài tựa của Nguyễn Khắc Kiệm hay là trong lúc ông bị Lê Thái
Hồng Đức quốc âm thi tập. Hồng Đức quốc âm thi tập (洪德國音詩集) là tên gọi của tuyển tập thơ chữ Nôm thường được cho là sáng tác bởi vua Lê Thánh Tông (1442-1497) cùng với các thành viên của nhóm Tao đàn nhị thập bát tú. Nó được xem là cột mốc thứ hai sau
Tập 13 Ca Sĩ Mặt N YouTuber, nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc nổi tiếng với giới trẻ. Anh khởi nghiệp với tư cách game thủ và chuyển dần sang nền tảng streamer các trò chơi điện tử. chịu trách nhiệm quản lý nội dung. Bà Nguyễn Bích Minh. hợp tác truyền thông. 024.
Giới thiệu chung: 1 Tập thơ "Quốc âm thi tập". 1. Tập thơ "Quốc âm thi tập". đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt. + Nội dung: phản ánh vẻ đẹp con người NT. - Tình yêu thiên nhiên quê hương, con người và cuộc sống. + Nghệ thuật: sáng
Nguyễn Trãi - Quốc Âm Thi Tập: Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một tập thơ quốc âm gần như sớm nhất ở nước ta. Giao hàng miễn phí cho đơn hàng từ 200.000 đ (nội thành HCM) và từ 500.000 đ (ngoại thành HCM/ Tỉnh) Có lẽ vì vậy mà lời thơ uyển chuyển, dung dị
Vay Tiền Nhanh. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu..........................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................7 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................7 5. Bố cục khoá luận.........................................................................................7 PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................8 CHƯƠNG I. NGUYỄN TRÃI - “KHÍ PHÁCH”, “TINH HOA” CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM...................................................................................8 Vài nét về thời đại và con người Nguyễn Trãi.......................................8 Thời đại Nguyễn Trãi - những biến động lớn lao...............................8 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi...............10 Nguyễn Trãi trong lịch sử phát triển văn hoá, văn học Việt Nam.....14 Nguyễn Trãi – người chiến sĩ xuất sắc trên mặt trận văn hoá........14 Quốc âm thi tập – nhịp cầu nối thơ ca dân gian và thơ ca bác học 18 CHƯƠNG II. QUỐC ÂM THI TẬP – SỰ KẾT TINH NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI............................................21 Nhìn lại thơ Nôm trong tiến trình phát triển thơ ca của dân tộc.......21 Những biểu hiện đặc sắc về nghệ thuật thơ Nôm Nguyễn Trãi..........24 Đề tài đa dạng và độc đáo...................................................................24 Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị.......................................................34 Hình ảnh thơ mang hơi thở của cuộc sống đời thường....................43 Sự cách tân trong thể thơ, vần thơ và nhịp điệu thơ........................49 PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................58 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................59 A .PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Nền văn học của bất kỳ dân tộc nào cũng như lịch sử phát triển của dân tộc đó, để tồn tại cho đến ngày nay, nó đều phải dựa trên cơ sở của cái cũ và phát triển thêm cái mới. Nền văn học của dân tộc Việt Nam cũng như vậy. Ra đời sau văn học dân gian, văn học trung đại Việt Nam có điều kiện tiếp thu những ánh sáng và tinh hoa từ nền văn học truyền thống mà cha ông ta đã dày công xây dựng và để lại. Do đó văn học trung đại Việt Nam đã nhanh chóng phát triển, sớm trở thành một bộ phận lớn của nền văn học nước nhà. Có thể nói, văn học trung đại Việt Nam đã trở thành một mảnh đất tốt tươi, sản sinh, nuôi dưỡng biết bao nhà thơ, nhà văn ưu tú và mỗi người có một phong cách sáng tác riêng. Nếu đọc thơ Nguyễn Du ta bâng khuâng trước những giọt lệ cao cả, chảy mãi ngàn đời giống như Chế Lan Viên đã đúc kết “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều” thì đến với Nguyễn Trãi ta bắt gặp một nhà quân sự làm thơ hết sức tài tình “Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu. Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng” Tố Hữu. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị sáng suốt, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà ngoại giao thiên tài, một nhà sử học, địa lý học và một nhà thơ, nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi đã hội tụ tất cả “khí phách”, “tinh hoa” nghĩa là những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta. Sinh ra và lớn lên vào thời buổi lịch sử có nhiều biến động, cuộc đời Nguyễn Trãi cũng có nhiều biến cố, thăng trầm. Tuy nhiên, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng là một tấm gương sáng, hết sức mẫu mực cho con cháu ngày sau noi theo và học tập. Với tư cách là một nhà văn, nhà thơ, Nguyễn Trãi đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ - một di sản văn học quý báu muôn đời. Đúng như Phạm Văn Đồng đã nhận xét “…Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca Trang 1 yêu nước và tự hào dân tộc”. Bước vào thế giới văn chương của Nguyễn Trãi, người đọc như được sống trong một thế giới đa thanh, đa sắc, đa điệu. Đó là lời sang sảng, hùng khí nhưng đầy nhân nghĩa của Bình Ngô đại cáo. Đó là tiếng nói đanh thép giống như một thứ vũ khí lợi hại, góp phần làm suy yếu tinh thần quân địch của Quân trung từ mệnh tập. Đó còn là tiếng nói tình cảm chân thành, nhiệt huyết của một con người suốt đời “âu việc nước”, “thân nhàn nhưng tâm không nhàn” trong những vần thơ Quốc âm. Có thể nói, Quốc âm thi tập là tập thơ có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Đây là tập thơ Nôm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc hiện còn. Xuân Diệu gọi nó là “tác phẩm mở đầu nền văn học cổ điển” nước ta. Sở dĩ có được vị trí trên vì bên cạnh giá trị nội dung, Quốc âm thi tập còn gặt hái được những thành tựu to lớn về giá trị nghệ thuật. Tìm hiểu Nét đặc sắc về nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện hơn về tài năng, phẩm giá và những đóng góp của Nguyễn Trãi trong tiến trình văn học Việt Nam. Mặt khác, văn chương của Nguyễn Trãi từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, thực hiện đề tài này sẽ góp phần phục vụ thiết thực và hiệu quả cho việc giảng dạy thơ Nguyễn Trãi nói chung, thơ Nôm của ông nói riêng. II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Nguyễn Trãi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam với một hồn thơ đa dạng và phong phú, đặc biệt là qua tập thơ Nôm Quốc âm thi tập. Ra đời và tồn tại hơn sáu thế kỷ nên tác phẩm này đã được rất nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đánh giá. Do đó, vấn đề Nét đặc sắc về nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi không còn là vấn đề mới mẻ nữa nhưng nó luôn là mảnh đất huyền bí, có sức hút mãnh liệt, là một dòng nước chưa bao giờ cạn đối với các nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu, các bài viết của các tác giả đã Trang 2 đưa ra nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá của mình nhưng bằng cách này hay cách khác họ đều thống nhất với nhau ở một điểm chung Quốc âm thi tập đã gặt hái được những thành công to lớn về mặt nghệ thuật. Một số bài viết của các tác giả sau đây sẽ giúp chúng ta thấy rõ điều đó. Tác giả Thanh Lãng với bài viết Quốc âm thi tập đã khẳng định Quốc âm thi tập là tài liệu văn học cổ nhất hiện còn lưu giữ được của nền văn học quốc âm. Giá trị của tập thơ không chỉ hạn hẹp ở những nét đặc sắc về nội dung mà còn ở nghệ thuật biểu hiện. Theo tác giả Thanh Lãng, với những gì mà Quốc âm thi tập đạt được thì Nguyễn Trãi xứng đáng là ông tổ của nền văn học cổ điển. Không những vậy, ông còn là ông tổ của nền văn học dân tộc, nhưng có tính chất không nguyên vì đem áp dụng luật thơ ngoại quốc vào việc chế tạo thơ văn quốc âm, cụ thể trong việc sử dụng các loại thể hoặc thuần tuý Việt Nam như loại thơ sáu chữ hoặc dung hoà Việt – Hán như lối bảy chữ xen sáu chữ… Tác giả bài viết còn đánh giá cao Nguyễn Trãi ở công khai sinh một nghệ thuật dùng ngôn ngữ của dân gian. Đây là điểm mới mẻ hơn các nhà thơ văn sống sau ông hơn ba bốn thế kỷ. Cuối cùng, Nguyễn Trãi được đánh giá là người dựng một cái mốc trên đà tiến của ngữ ngôn – một ngữ ngôn uyển chuyển, tế nhị trong việc diễn tả mọi tình ý một cách độc đáo [12. tr. 805]. Cũng bàn về việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Trãi, trong bài Một vài nhận xét bước đầu về ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Trãi, sau khi nhận xét về ngôn ngữ trong thơ chữ Hán, tác giả Nguyễn Tài Cẩn – Vũ Đức Nghiêu có nói về ngôn ngữ trong thơ Nôm Nói đến ngôn ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, điểm đầu tiên nổi bật là sự phong phú của tác giả về mặt dùng từ [20, tr. 181]. Tác giả bài viết đã thống kê toàn bộ các bài trong Quốc âm thi tập và phát hiện ra Nguyễn Trãi đã dùng hơn một vạn một ngàn lượt từ trong đó có tất cả từ khác nhau. Tác giả bài viết còn thống kê chi tiết số Trang 3 từ xuất hiện một lần từ cho đến những từ xuất hiện từ mười lần trở lên 272 từ. Thế là trong kho từ của Quốc âm thi tập, gần 46 trường hợp Nguyễn Trãi đã không dùng từ lặp lại một lần nào – một tỷ lệ khá cao nếu đem so sánh ngay với cả thể loại truyện ký của các nhà văn hiện đại [20, tr. 182]. Điều đó chứng tỏ khả năng vận dụng từ ngữ phong phú, điêu luyện của Nguyễn Trãi. Cuối cùng, để làm nổi bật vai trò của Nguyễn Trãi đối với nền thơ dân tộc, tác giả bài viết còn khẳng định Chúng ta quý Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta khá nhiều thơ Nôm. Nhưng còn đáng quý hơn nữa là Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta không phải một lối thơ Nôm bác học mà là một lối thơ Nôm viết bằng ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc [20, tr. 183]. Tác giả Bùi Văn Nguyên với bài viết Âm vang của tục ngữ, ca dao trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi đã khảo sát một cách tỉ mỉ hệ thống tục ngữ, ca dao xuất hiện trong thơ quốc âm để thấy rằng yếu tố tục ngữ, ca dao khá đậm đà trong nhiều câu, nhiều bài. Với 1908 câu thơ thì đã có 50 câu thơ có yếu tố tục ngữ và khoảng 20 câu thơ có yếu tố ca dao, và nếu tính phần trăm thì yếu tố tục ngữ chiếm khoảng 2,5 % và yếu tố ca dao chiếm khoảng 1 % [10, tr. 83]. Điều đáng ghi nhận là các hình thức vận dụng vốn cổ văn học dân gian được thể hiện một cách linh hoạt, sáng tạo Có chỗ như “lẫy”, có chỗ như “tập”, có chỗ như “phỏng”, có chỗ lấy toàn cả ý, cả từ, có chỗ lấy ý mà từ có bổ sung hay có chỗ lấy từ mà ý có bổ sung [10, tr. 88]. Tác giả Hoàng Tuệ với bài viết Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt đã khẳng định Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt, đó là một cống hiến hết sức lớn lao [12, tr. 826]. Nguyễn Trãi trên cơ sở của thái độ quý trọng và đề cao chất liệu của tiếng Nôm, tức tiếng Việt, văn học dân gian truyền miệng đã sử dụng một cách thành công bộ phận từ vựng Việt, ngữ pháp Việt, đặc biệt là tục ngữ rõ ràng là vật được quý chuộng [12, tr. 819]. Bên cạnh đó, đọc Quốc âm thi tập, tác giả bài viết còn phát hiện ra một vấn đề Trang 4 khác vấn đề chất liệu trong tiếng Hán mà Nguyễn Trãi đã dùng nhiều [12, tr. 820]. Song dùng nhiều tiếng Hán không có nghĩa là Nguyễn Trãi nghiêng về nền Hán văn của Trung Hoa, không có nghĩa là Nguyễn Trãi đã đồng hoá kho từ vựng và văn liệu Hán học. Trái lại, với ý thức dân tộc sâu sắc, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, Nguyễn Trãi đã cố gắng xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian [5, tr. 257]. Đây là thành tựu lớn nhất mà trong bài viết Nguyễn Trãi và tấm lòng ưu ái “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”, tác giả Đinh Gia Khánh đã nhận xét. Nếu như tác giả trên chú ý khai thác đặc sắc nghệ thuật của quốc âm ở phương diện ngôn ngữ thì tác giả Phạm Luận lại tiếp cận tập thơ ở phương diện thể loại. Trong bài Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong Quốc âm thi tập, tác giả bài viết đã đối chiếu, so sánh khá tỉ mỉ những vần thơ quốc âm với thơ Đường, từ đó khẳng định Nguyễn Trãi đã vận dụng thi pháp thơ Đường một cách thành thạo. Nguyễn Trãi đã có sự sáng tạo khéo léo, tài tình số lớn các bài thơ đều ít nhiều có chỗ viết khác niêm luật thơ Đường. Điều này thể hiện ở những câu 7 tiếng có cách ngắt nhịp 3/4 khác lối ngắt nhịp của thể thơ Đường 4/3 [12, tr. 840], ở việc dùng câu 6 tiếng xen với câu 7 tiếng trong bài thơ bát cú cũng như tứ tuyệt [12, tr. 841]. Cũng là tác giả Phạm Luận trong bài viết Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thi pháp Việt Nam, sau khi căn cứ vào hình thức loại biệt trong tổ chức chất liệu ngôn ngữ, tác giả đã chỉ ra ba thể thơ mà Nguyễn Trãi sử dụng là thể luật Đường, thể thất ngôn, thể câu 6 chữ xen với câu 7 chữ. Ngoài ra, tác giả còn khẳng định trong quá trình sáng tác thơ bằng tiếng Việt Nguyễn Trãi đã tiếp thu sâu sắc thi pháp luật Đường… [12, Và từ những tiềm năng quý báu của thể thơ Trung Quốc này, Nguyễn Trãi đã có một cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, một thi pháp Việt Nam ở giai Trang 5 đoạn văn học chữ Nôm mới bắt đầu được hình thành và phát triển [12, tr. 856]. Điều này được tác giả chứng minh qua lối kiến tạo tiết tấu, lối gieo vần lưng mà Nguyễn Trãi sử dụng trong tập thơ của mình. Trong bài viết Một vài nhận xét về mối quan hệ giữa thể thơ Nôm của Nguyễn Trãi với thể thất ngôn luật ở Trung Quốc cùng với tác giả Nguyễn Phạm Hùng, tác giả Phạm Luận cũng có những phát hiện thật xác đáng. Tác giả bài viết cho rằng Trong Quốc âm thi tập vừa có nhân tố hợp luật Đường, lại vừa có nhân tố phi luật Đường [12, tr. 861]. Cụ thể ở cách hiệp vần trong thơ chủ yếu là vần bằng, ở cấu tạo nhịp câu thơ thất ngôn rất đa dạng nhưng phổ biến vẫn là cách ngắt nhịp 3/4, ở thể thất ngôn xen lục ngôn. Qua khảo sát của tác giả trong 254 bài thơ quốc âm thì đã có tới 156 bài có câu thất ngôn xen lục ngôn, chiếm 2/3 số bài trong tập. Điều này làm cho tiết điệu bài thơ phong phú hơn rất nhiều… Như vậy, vấn đề Nét đặc sắc về nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi từ trước cho tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá. Trên đây là một số ý kiến trong các bài viết của các tác giả nổi tiếng là những nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình văn học… mà trong điều kiện cho phép chúng tôi đã thu thập được. Các bài viết trên đều tiếp cận, lý giải vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau nhưng vì một vài lý do nào đó phần lớn mỗi bài viết chỉ mới dừng lại ở những nhận định chung hoặc đi vào tìm hiểu một vài đặc sắc nghệ thuật như một hiện tượng riêng lẻ. Chính vì vây, với công trình khoá luận này, trên cơ sở kế thừa và phát triển thành quả của những người đi trước, chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống và tương đối toàn diện hơn. Từ đó khẳng định tài năng, vai trò, vị trí cũng như những đóng góp của Nguyễn Trãi cho nền văn học dân tộc. Trang 6 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của đề tài là đặc sắc thơ Nôm Nguyễn Trãi được làm rõ trên phương diện nghệ thuật. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi, sách do Bùi Văn Nguyên biên khảo, chú giải và giới thiệu, của Nxb Giáo dục, năm 2003. IV. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và thực hiện nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra, trong luận văn này chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp thông dụng trong nghiên cứu văn học như - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp đối chiếu, so sánh. - Phương pháp phân tích, chứng minh. - Phương pháp tổng hợp. B. PHẦN NỘI DUNG I. Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của tác gia Nguyễn Trãi 1. Nguyễn Trãi- cuộc đời lừng lẫy mà bi thương Nguyễn Trãi 1380 – 1442, tên hiệu là Ức Trai, sinh ở Thăng Long, ông ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long hay còn gọi là Trang 7 Nguyễn Phi Khanh, mẹ Trần Thị Thái. Còn nhỏ Nguyễn Trãi ở với ông ngoại là Trần Nguyên Đán. Năm 1385, Nguyễn Trãi theo ông ngoại về ở Côn Sơn. Lên 5 tuổi thì mẹ Nguyễn Trãi qua đời, một thời gian sau đó ông ngoại cũng mất, Nguyễn Trãi về ở với cha của mình tại quê nội làng Nhị Khê. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, cũng là năm thi đầu tiên của nhà Hồ. Nguyễn Trãi lúc này 20 tuổi đã đi thi và đỗ Thái học sinh Tiến sĩ. Năm 1401 cha của Nguyễn Trãi đổi tên là Nguyễn Phi Khanh được nhà Hồ mời ra làm quan, giữ chức Quốc tử giám tư nghiệp. Nguyễn Trãi cũng được mời làm Ngự sử đài chính chưởng. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ đem quân chóng cự nhưng không thành. Cha con Hồ Quý Ly cùng một số triều thành đã bị bắt trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi muốn tròn đạo hiếu với cha nên đã cùng em là Nguyễn Phi Hùng đi theo cha. Trên đường đi Nguyễn Trãi nghe theo lời dặn của cha nên quay về lại tìm đường cứu nước. Nhưng rồi Nguyễn Trãi bị giặc minh bắt và giam lỏng ở thành Đông Quan Hà Nội. Một thời gian sau, ông trốn khỏi Đông Quan tìm đường theo Lê Lợi. Cuối năm 1426, Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức thư đó có tính chiến đấu mạnh mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần quân địch. Năm 1427, cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Cũng trong năm này ông được phong làm Triều Liệt đại phu, tiếp đó là Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, Tước quan phục hầu. Sau một thời gian làm quan, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn tại Côn Sơn Hải Dương. Năm 1434, Thái Tông mời ông ra giúp nước. Năm 1442 Thái Tông mất, triều đình đổ tội giết vua cho ông và khép vào án tru di. Đến năm 1464, Lê Thánh Tông thấu hiểu nỗi oan của Nguyễn Trãi, phục hồi cho ông chức Tân trù bá, đồng thời cho tìm con của ông để bổ dụng. Trang 8 2. Nguyễn Trãi- tác gia vĩ đại của dân tộc Việt Nam Nguyễn Trãi là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Ông đã hướng ngòi bút của mình theo hai hướng chữ Hán và chữ Nôm. Ở phương diện nào ông cũng có những thành công nhất định. Tác phẩm của Nguyễn Trãi sau khi ông qua đời cũng chịu nhiều số phận long đong. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi bị lệnh tiêu huỷ. Hai mươi hai năm sau, 1464 Lê Thánh Tông truyền lệnh sưu tầm tác phẩm của Nguyễn Trãi nhưng rồi bị thất tán. Do đó, mãi đầu thế kỷ XIX, tác phẩm của ông mới được tìm lại và nửa cuối thế kỷ XIX mới được khắc in. Nhờ vào tình yêu thơ văn Nguyễn Trãi của biết bao thế hệ, những tác phẩm ấy được bảo tồn. Về chữ Hán có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Ở lĩnh vực chính trị, quân sự có tác phẩm Quân trung từ mệnh tập, bao gồm một số thư từ văn bia, biểu chiếu mà Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết để đối nội và đối ngoại. Bình Ngô đại cáo vừa là “áng thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết đầy đủ và xúc động về cuộc kháng chiến anh dũng chống giặc Minh xâm lược vừa là bản tuyên ngôn về lòng yêu hoà bình của dân ta. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn soạn 28 bài gồm phú, chiếu, biểu, tấu, bi kí, lục…Trong đó đáng chú ý là bài Phú núi Chí Linh, Chuyện cũ về cụ Băng Hồ. Ở lĩnh vực lịch sử, có tác phẩm Lam Sơn thực lục và Văn bia Vĩnh Lăng Nguyễn Trãi ghi lại quá trình khởi nghĩa Sơn, khẳng định tư tưởng gắn bó với dân là điều kiện tiên quyết của mọi thắng lợi. Dư địa chí là tác phẩm địa lí duy nhất còn lại ở nước ta. Ngoài giá trị địa lí, cuốn sách còn có giá trị lịch sử và dân tộc học. Và Ức Trai thi tập là tác phẩm văn học lớn nhất bằng chữ Hán 105 bài thể hiện tâm sự cá nhân của Nguyễn Trãi. Về chữ Nôm, Nguyễn Trãi có tập đại thành Quốc âm thi tập, đánh dấu sự trưởng thành của nền thơ ca tiếng Việt. Tác phẩm bao gồm 254 bài, nhìn một Trang 9 cách tổng quát thì những bài thơ đó trước hết là để miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong Quốc âm thi tập vừa mang vẻ đẹp thanh tao, cao nhã, vừa mang vẻ đẹp chân chất, đơn sơ, bình dị của làng quê Việt Nam. Nguyễn Trãi ca ngợi cảnh vật đất nước với tấm lòng tin yêu, rộng mở và gợi nhiều thi hứng dạt dào. Song không chỉ đơn thuần miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Trãi còn gửi gắm tấm ân tình của mình ở đằng sau nó. Những bài thơ ấy đều ẩn chứa một dấu hỏi về trách nhiệm, bổn phận của con người trước cuộc đời. Đó chính là tâm huyết của một bậc anh hùng cứu quốc, một bậc triết nhân suốt đời “âu việc nước” Bui có một niềm chăng nỡ trễ Đạo làm con lẫn đạo làm tôi. Ngôn chí, bài 1 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói Từ bài Bình Ngô đại cáo qua các bức thư gửi các tướng tá xâm lược đến thơ chữ Hán và chữ Nôm… ngòi bút thần của Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm nhiều thể văn và tất cả đều hay và đẹp lạ thường [13, tr. 15]. Nhìn chung, các tác phẩm của Nguyễn Trãi dù là chữ Hán hay chữ Nôm thì chúng đều có sự thống nhất về mặt nội dung. Điều đó thể hiện ở hai điểm nổi bật là tinh thần yêu nước nồng nàn và lí tưởng đấu tranh vì chính nghĩa. Về nghệ thuật thì các tác phẩm thể hiện sự phong phú về thể loại và có nhiều đóng góp cho nghệ thuật thơ ca nước nhà. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lại đến ngày nay là tài sản vô giá của văn học dân tộc, là niềm tự hào chính đáng của các thế hệ người Việt Nam xưa nay. II. Khái quát về thơ nôm dân tộc và “ Quốc Âm Thi Tập” 1. Nhìn lại thơ Nôm trong tiến trình phát triển thơ ca của dân tộc Cho đến nay người ta vẫn chưa biết chính xác thơ Nôm ra đời ở thế kỷ nào. Chỉ biết nó ra đời sau văn học viết bằng chữ Hán. Trước đó nền văn học Trang 10 chữ Hán đang trên đà phát triển và thu được nhiều thành tựu rực rỡ. Nhiều thể loại văn học, nhiều tác phẩm Hán học lớn ra đời, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành và giữ nền độc lập của dân tộc. Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán, thiết lập nhà nước phong kiến Việt Nam. Đất nước độc lập, yêu cầu phải có một thứ chữ viết riêng. Nhu cầu bức thiết ấy đã thúc đẩy sự ra đời của chữ Nôm. Chữ Nôm được dần dần hoàn thiện và đến thế kỷ XIII, người Việt đã dùng nó vào trong sáng tác văn chương. Các tác giả thế kỷ X – XIV đã sử dụng chữ Nôm để Việt hoá thành công hai thể loại văn học ngoại nhập, đó là thơ Đường luật và phú. Người có công đầu tiên trong việc này là Hàn Thuyên. Đại Việt sử ký toàn thư đã từng ghi lại “Nhâm ngọ Thiên Bảo năm thứ tư 1282. Mùa thu, tháng tám… Bấy giờ có cá sấu đến sông Lô. Vua sai Thượng Thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông. Con cá sấu tự mất đi. Vua cho là việc này giống như việc của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm. Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ đây”. Lấy hiện tượng Hàn Thuyên, nhiều ý kiến cho rằng thơ Nôm Đường luật ra đời từ đó. Tên tuổi Hàn Thuyên gắn liền với hai chữ Hàn luật. Tiếc rằng hiện nay chưa tìm thấy thơ Nôm Đường luật của Hàn Thuyên. Song sự kiện được ghi chép lại trong Đại Việt sử ký toàn thư, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng được. Bởi đây là một bộ sử chính thức, ghi lại những sự kiện quan trọng của nước ta thời bấy giờ. Sự ra đời của thơ Nôm Đường luật là một bước ngoặt lớn trong tiến trình thơ ca Việt Nam. Từ đây, bên cạnh nền văn học viết bằng chữ Hán còn có nền văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc mà thơ Nôm là thành tựu bước đầu. Thơ Nôm ra đời ở thế kỷ XIII rồi ngày càng được chuẩn hoá và hoàn thiện các mặt từ đề tài thơ, ngôn ngữ thơ … cho đến vần thơ và nhịp điệu thơ. Nhìn Trang 11 lại thơ Nôm trong tiến trình thơ ca dân tộc, sau khi ra đời, thơ Nôm đã phát triển qua các thời kỳ khác nhau gắn liền với những đặc sắc riêng. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, đây là giai đoạn phát triển đầu tiên của thơ Nôm Đường luật. Thơ Nôm giai đoạn này đã trải qua những bước thăng trầm đạt được thành tựu rực rỡ ở thế kỷ XV, thành tựu lớn ở thế kỷ XVI, kém phát triển hơn trong thế kỷ XVII. Và với sự xuất hiện trên thực tế văn bản viết tay của Quốc âm thi tập thì tập đại thành thơ Nôm này đã trở thành “tác phẩm mở đầu cho nền văn học cổ điển Việt Nam” Xuân Diệu. Nói như vây, Xuân Diệu muốn khẳng định sự đóng góp to lớn của tập thơ cả về phương diện nội dung lẫn nghệ thuật. Quốc âm thi tập vừa thể hiện một niềm thao thức của một cái tôi suốt đời “âu việc nước, đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung”, vừa thể hiện chí khí thanh cao, trong sáng của một con người cống hiến hết mình cho non sông đất nước, lại vừa là một túi thơ chứa hết mọi giang san của một tâm hồn lộng gió bốn phương. Tác phẩm là bằng chứng ghi nhận sự nỗ lực lớn lao của Nguyễn Trãi – nỗ lực để “xây dựng một lối thơ Việt Nam” trên cơ sở tiếp thu, vận dụng thể thơ có sẵn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, không tuân thủ tính quy phạm chặt chẽ của thơ Đường, Nguyễn Trãi đã đem đến cho Quốc âm thi tập những cách tân tiến bộ, những xu hướng phá cách trong sáng tác Đường luật Nôm. Nguyễn Trãi đã khéo léo, tinh tế trong việc lựa chọn đề tài thơ; hạn chế tối đa ngôn ngữ Hán, các điển tích, điển cố; tận dụng tối đa ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt là thành ngữ, tục ngữ, ca dao từ văn học dân gian để làm chất liệu sáng tác thơ Nôm của mình. Gần gũi, gắn bó với quê hương làng mạc Việt Nam, Nguyễn Trãi đã đưa vào Quốc âm thi tập những hình ảnh thơ dân giã, bình dị, khác xa với văn chương bác học của tầng lớp quý tộc phong kiến. Nguyễn Trãi cũng tạo nên một âm điệu mới cho thể thơ 6 chữ xen vào những câu thơ 8 câu 7 chữ. Với những khám phá và thành công về nội dung cũng như nghệ thuật Trang 12 như trên, Quốc âm thi tập có một vị trí quan trọng trong vườn hoa văn học nước nhà. Tác phẩm từ đó cũng ảnh hưởng tới hàng loạt các sáng tác sau này như Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông cuối thế kỷ XV, Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm thế kỷ XVI. Hồng Đức quốc âm thi tập thể hiện sự tìm tòi của Lê Thánh Tông trong việc tìm cho thơ Nôm Đường luật những chức năng mới cho thể loại. Đó là hiện tượng dùng thơ Đường luật để trào phúng và tự sự. Thể thơ 6 chữ trong Hồng Đức quốc âm thi tập vẫn được tác giả Lê Thánh Tông kế tục từ thơ Nôm Nguyễn Trãi. Song đến Bạch Vân quốc ngữ thi tập thì số lượng những câu thơ 6 chữ đã giảm đi rất nhiều. Đề tài, chủ đề dân tộc trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập cũng không đậm nét như trong thơ thế kỷ XV. Nét nổi bật trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm là những đề tài, chủ đề mang tính chất xã hội. “Tư duy thế sự” tạo cho Nguyễn Bỉnh Khiêm “một phong cách triết gia” không thể nhầm lẫn với bất cứ một tác giả nào trước và sau đó. Sang thế kỷ XVII, cùng với việc ban hành nhiều chính sách giáo hoá mới, Trịnh Tạc đã cho thu thập nhiều sách Nôm “có hại cho giáo hoá” đốt đi. Thơ Nôm cùng với văn tự của nó bị coi nhẹ, bị gọi là “cha mách qué”. Điều này trở thành hạn chế chung cho cả một thời kỳ văn học. Sau hơn một thế kỷ phát triển với nhịp điệu bình thường, không có những thành tựu lớn, bước sang thế kỷ XVIII – XIX, thơ Nôm Đường luật khởi sắc trở lại. Hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương xuất hiện ở giai đoạn này đã tạo nên sự giao thoa giữa hai nền văn học – văn học viết và văn học dân gian. Nữ thi sĩ này đã tiếp tục xu hướng dân tộc hoá ở các tác giả của thời kỳ trước, đồng thời đã chuyển nhanh thể loại thơ Nôm Đường luật trên con đường dân chủ hoá nội dung và hình thức nghệ thuật. Và nếu như Nguyễn Trãi là người “khai sơn phá thạch” với những thử nghiệm bước đầu để xây dựng một lối thơ Việt Nam thì Hồ Xuân Hương chính là người tạo nên sự ổn định trong chính chỉnh Trang 13 thể của nó “So trước nhìn sau, mọi người đều thừa nhận rằng thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất vì hình thức thơ đẹp hơn, dân tộc hơn và đại chúng hơn cả” - Nguyễn Đăng Na. Sang giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, mặc dù đây là giai đoạn cuối cùng của thơ Nôm Đường luật nhưng nó vẫn có những thành tựu đáng kể. Hai tác giả lớn cuối cùng của dòng thơ Nôm Đường luật là Trần Tế Xương và Nguyễn Khuyến. Hai tác giả này đã chuyển thơ Nôm Đường lụât từ văn học trung đại sang văn học cận – hiện đại. Với những vần thơ “cười ra nước mắt” kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình, Tú Xương và Nguyễn Khuyến đã nâng tầm khái quát nghệ thuật của thơ Nôm Đường luật lên một bước tiến mới. Chức năng phản ánh xã hội của thể loại này không chỉ dừng ở mức “trữ tình thế sự”, “tư duy thế sự”, trào phúng mà còn vươn lên phản ánh xã hội đương thời bằng ngòi bút chân thực và sinh động. Tuy nhiên, hoàn cảnh lịch sử mới không cho phép sự tồn tại tiếp tục dòng thơ này. Ngày mà Tú Xương “Vứt bút lông đi để viết bút chì” chính là ngày báo hiệu sự suy giảm của thơ Nôm Đường luật. Chữ Nôm không được dùng trong sáng tác. Thể loại thơ Đường luật ghi âm bằng tiếng Hán kết hợp phương thức biểu ý mà trước đó ta gọi bằng thơ Nôm giờ đã nhường chỗ cho thể thơ Đường luật viết bằng chữ quốc ngữ hay còn gọi là tiếng Việt. Như vậy, từ Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương thơ Nôm Đường luật đã trải qua năm thế kỷ phát triển rực rỡ với diện mạo riêng. Qua năm thế kỷ đó, thơ Nôm Đường luật không ngừng vận động, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Những tác phẩm thơ Nôm Đường luật còn lại tới ngày nay là vốn cổ quý giá, thể hiện những nỗ lực, cố gắng để xây dựng một lối thơ mang bản sắc dân tộc của ông cha ta. Trang 14 2. Quốc âm thi tập – nhịp cầu nối thơ ca dân gian và thơ ca bác học Theo các tài liệu ghi chép để lại, Quốc âm thi tập không phải là tập thơ đầu tiên viết bằng chữ Nôm. Trước Nguyễn Trãi, vào thế kỷ XIII đã có Nguyễn Thuyên, Nguyên Sĩ Cố làm phú bằng thơ Nôm. Tuy nhiên những tác phẩm ấy vẫn còn ngượng nghịu, gượng ép, lúng túng trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh làm phương thức biểu đạt. Hơn nữa, những tác phẩm ấy hiện nay đều không còn. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc được giữ lại tới tận ngày nay. Xem xét vai trò của Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy đây là một tập thơ giữ vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Quốc âm thi tập bao gồm 254 bài, được viết ở nhiều thời điểm khác nhau trong lúc nhà thơ về trí ẩn ở Côn Sơn. Với sự ra đời của tập thơ này, nó đã khẳng định dứt khoát sự tồn tại trong thực tế dòng văn học tiếng Việt. Từ đây dòng văn học chữ Nôm sẽ phát triển song song với dòng văn học chữ Hán, làm cho văn học dân tộc phát triển phong phú, toàn diện và mạnh mẽ hơn. Quốc âm thi tập được chia làm 4 mục lớn Vô đề 192 bài; Thời lệnh môn 21 bài; Hoa mộc môn 34 bài; Cầm thú môn 7 bài. Nhìn chung, bố cục tập thơ vẫn dựa theo công thức phổ biến thời bấy giờ nhưng đã được chỉnh lý, chọn lọc theo ý đồ riêng của tác giả. Trong đó quan trọng nhất là mục Vô đề gồm 13 chủng loại nhỏ từ Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình … đến Huấn nam tử. Nói mục này quan trọng nhất vì nó chứa đựng đầy đủ nhất tâm tư, tình cảm và Trang 15 tấm lòng sắt son của Nguyễn Trãi với đất nước với nhân dân. Qua Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi muốn gửi gắm một triết lý tình thương bao la, một chủ nghĩa nhân đạo rộng lớn đến con người và cảnh vật. Qua Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi cũng muốn khẳng định vai trò to lớn của tập thơ – nhịp cầu nối giữa hai nền thơ ca của dân tộc. Đó là thơ ca dân gian và thơ ca bác học. Nhịp cầu ấy được thể hiện rõ nét thông qua những khám phá về nội dung và những phát minh về hình thức nghệ thuật. Về nội dung, tiếp thu những thành tựu của nền văn học dân gian và các tác phẩm của nền văn học viết trước đó, Quốc âm thi tập thể hiện lòng yêu nước thương dân với lý tưởng nhân nghĩa cao đẹp. Bên cạnh đó, tập thơ còn ca ngợi chí khí thanh cao, cuộc đời giản dị của một vị anh hùng dân tộc. Đồng thời qua Quốc âm thi tập, người đọc có thể nhận ra một tâm hồn phong phú, đa dạng và rất lãng mạn của Ức Trai, một con người mẫu mực với những triết lí giáo dục đạo đức sâu sắc. Chính nhờ Nguyễn Trãi mà những giá trị của truyền thống, những phong tục, tập quán, những lời giáo huấn chân tình mà sâu sắc của cha ông mới được truyền lại qua bao thế hệ. Về phương diện nghệ thuật, Quốc âm thi tập được đánh giá là đã tạo nên sự bứt phá của dòng thơ Nôm Việt Nam “Đến Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập mới là một sự bứt lên thành một tiếng Việt văn chương với nhiều sáng tạo vừa sử dụng nâng cao tiếng nói của nhân dân thường ngày vừa sử dụng trực tiếp chữ Hán, hoặc dịch ra tiếng Việt một cách mạnh dạn, đồng thời cũng tiếp nối hoặc sáng tạo một âm điệu mới cho thể thơ 8 câu 7 chữ là âm điệu câu thơ 6 chữ xen vào từng lúc” [16, Như vậy, khác với tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập thì tập thơ Nôm Quốc âm thi tập đại thành này nhờ sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Trãi có thể bộc lộ được tâm tư tình cảm, các sắc thái trữ tình một cách sâu sắc hơn, linh động, uyển chuyển hơn. Vì lẽ đó mà lời thơ dung dị, gần gũi với nếp nghĩ, với lời ăn tiếng nói hằng ngày Trang 16 của mỗi người dân Việt. Song không dừng lại ở việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Trãi còn có sự trau chuốt, gọt giũa, cách tân theo những hướng tiến bộ cả mặt ngôn ngữ lẫn thể thơ. Nguyễn Trãi đồng thời cũng hạn chế đến mức tối đa việc vận dụng chữ Hán, thay vào đó là ông dịch ra tiếng Việt một cách dễ nhớ, dễ thuộc. Nguyễn Trãi là một người có ý thức dân tộc sâu sắc, có tinh thần yêu nước nồng nàn. Ta thấy trong Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng một nguồn thi liệu dân tộc phong phú, từ hệ thống đề tài đến thể thơ, hình ảnh thơ và hệ thống vần thơ, nhịp điệu thơ. Điều đặc biệt đem đến thành công cho tập thơ là tuy sử dụng chất liệu dân gian nhưng không thụ động, Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách sáng tạo. Chính vì vậy, Quốc âm thi tập được xem là nhịp cầu, làm cho thơ ca dân gian và thơ ca bác học xích lại gần nhau, giúp cho thơ ca tiếng Việt khắc phục được khuynh hướng ngoại lai và phát triển mạnh mẽ, gần gũi với quần chúng lao động. Tóm lại, ở một thời đại mà nền văn học chữ Hán đang thịnh hành, sự xuất hiện và để lại dấu ấn quan trọng như Quốc âm thi tập là một thành công to lớn của Nguyễn Trãi nói riêng, của nền văn học Việt Nam nói chung. Quốc âm thi tập đã đánh một mốc son chói lọi vào hành trình thơ ca dân tộc. Nỗ lực xây dựng một nền văn hoá, văn học được bộc lộ rõ nét ở vai trò là nhịp cầu nối hai nền thơ ca bác học và thơ ca dân gian. Đặc biệt, với việc sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những nét nghệ thuật biểu hiện của thơ ca dân tộc, Nguyễn Trãi đã đem đến cho tập thơ của mình một phong vị dân tộc đậm đà, một nét thuần Việt độc đáo. Trang 17 III. Đặc sắc nghệ thuật thơ nôm trong “ Quốc Âm Thi Tập” 1. Quốc âm thi tập nét độc đáo về đề tài Văn học có khả năng phản ánh hiện thực vô cùng rộng lớn. Đối tượng của văn học bao gồm toàn bộ thế giới tự nhiên và con người. Trong những điều kiện sáng tác nhất định, tuỳ theo kinh nghiệm, vốn sống, trình độ, năng lực, sở thích mà mỗi nhà thơ, nhà văn có thể hướng ngòi bút của mình đến một lĩnh vực, một phạm vi cụ thể của đời sống mà họ yêu thích, am tường. Đọc những vần thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Tế Hanh đã xúc động nói lên nỗi lòng mình Nhắc tới tên ông là thấy thơ Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ Nghìn năm sự việc bao thay đổi Một nét tâm tư chẳng thể mờ Thơ suy nghĩ nhân tình, thế cuộc Thơ ca ngợi cảnh đẹp non sông Thơ nói đến con mèo, con vện Thơ nói về cây trúc, cây thông. Bài thơ đã giúp người đọc hình dung được một số khía cạnh đề tài mà Nguyễn Trãi phản ánh trong Quốc âm thi tập. Trong phạm vi cho phép của bài viết này, chúng tôi xin nghiên cứu hai khía cạnh đề tài tiêu biểu trở thành nét đặc sắc trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là đề tài viết về nhân tình, thế cuộc và đề tài viết về tình yêu. a Quốc âm thi tập- sự kết tinh của những vần thơ viết về nhân tình, thế cuộc Trang 18 “ Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” Beilinski. Cuộc đời chính là chất liệu, là ngọn nguồn sáng tác cho mỗi nhà thơ, nhà văn. Đọc Quốc âm thi tập, chúng ta có thể nhận ra Nguyễn Trãi có rất nhiều bài thơ nói về thời cuộc. Nguyễn Trãi nói đến thời đại và thông qua thời đại để nói đến cuộc đời riêng của mình. Trong hành trình “tìm đường”, “tìm minh chủ” cũng như những năm tháng làm quan, có lúc Nguyễn Trãi cảm thấy vui vì mình sinh ra gặp thời thế. Ông đã chân thành bày tỏ lòng biết ơn của mình Phúc thay, sinh gặp thủa thăng bình Nấn ná qua ngày được dưỡng mình. Trong mặt những mừng ơn bầu bạn, Trên đầu luống đội đức triều đình. Tự thán, bài 29 Nguyễn Trãi cảm thấy mảnh đất mình sinh ra và lớn lên thật đáng quý và thật đáng tự hào Đất thiên tử dưỡng tôi thiên tử Đời thái bình ca khúc thái bình … Rày mừng thiên hạ hai của Tể tướng hiền tài, chúa thanh minh. Thuật hứng, bài 20 Vì cuộc đời tươi đẹp như vậy cho nên nó luôn thôi thúc Nguyễn Trãi thi thố tài năng xây dựng một xã hội vua sáng, tôi hiền; một đất nước có văn hiến, đứng đầu là “Tể tướng hiền tài, chúa thanh minh” đảm đương công việc. Nhưng ước vọng tốt đẹp và những cố gắng của Nguyễn Trãi dần dần sụp đổ. Bản chất muôn đời của chế độ phong kiến cuối cùng cũng bộc lộ rõ ra. Vua Lê nghe lời dèm pha, ton hót của bọn nịnh thần quay sang sát phạt những Trang 19
Giới thiệu sách Nguyễn Trãi - Quốc Âm Thi TậpTheo GS. Nguyễn Phong Nam, Quốc âm thi tập là “sự khởi đầu hoành tráng nhất, ấn tượng nhất” của thơ Nôm Việt Nam. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi được xem như nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Quốc âm thi tập có 254 bài thơ, được xếp theo bốn phần là Vô đề 188 bài, Môn thì lệnh 21 bài, Hoa mộc môn 34 bài, Môn cầm thú 7 bài. Trong đó, phần quan trọng và trọng tâm là phần Vô đề. Đây là tập thơ theo thể thơ cách luật thất ngôn bát cú, phần lớn theo thể phổ biến bình thường, một số bài theo thể cải biên, pha câu lục ngôn, ngũ ngôn ở các vị trí không nhất định. Tập thơ này được viết bằng chữ Nôm – thứ chữ dựa trên kí hiệu chữ Hán có biến cải để ghi âm tiếng Việt. Có lẽ vì vậy mà lời thơ uyển chuyển, dung dị, gần gũi đời thường, gần với nếp cảm, nếp nghĩ dân tộc. So với thơ chữ Hán, tập thơ Nôm đại thành của Nguyễn Trãi có khả năng thể hiện sâu sắc tâm hồn dân tộc, cảm quan về thiên nhiên, quê hương, đất nước. Nhờ sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Trãi có thể bộc lộ các cung bậc tình cảm, các sắc thái trữ tình, thế giới nội tâm và mọi nỗi ưu phiền một cách tự do, linh động. Quốc âm thi tập là thơ của người ẩn, cảnh sắc là cảnh sắc ở ẩn. Nguyễn Trãi như một lão nông tri điền say trong thiên nhiên thôn dã với tình yêu sâu sắc. Cùng với tình yêu thiên nhiên, tập thơ còn bộc lộ tình yêu con người, cuộc sống và nỗi đau buồn trước thế sự, lòng người hiểm hóc. Bên cạnh đó, cuộn chảy suốt Quốc âm thi tập là nỗi lòng ưu dân ái quốc, là dâng dậy tấm lòng của một con người luôn canh cánh nỗi tiên ưu với niềm khắc khoải chưa thấu thỏa, là vằng vặc vầng sáng của ý chí, của khát vọng hiến dâng mình cho đại sự nước nhà Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn/ Dường như ta đà phỉ sở nguyền. Những tâm tình ấy, ý nguyện ấy đã được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ dân dã, không bị gò bó bởi thi luật thơ Đường mà phóng khoáng đầy bay bổng. Đúng là những câu thơ Nôm của Nguyễn Trãi có khi trần trụi, sần sùi như quặng quý còn vùi trong đất cát, có khi long lanh như ngọc bích đã qua tay người thợ kim hoàn chế tác. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã tạo nên một lối thơ vừa sâu sắc trí tuệ, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Trong bối cảnh văn hóa, văn học trung đại bấy giờ, thơ Nôm Nguyễn Trãi đã tiên phong, dẫn nguồn thơ Đường bám rễ vào hồn dân tộc. Quốc âm thi tập không chỉ đưa ta khám phá con người cá nhân trong thơ, tính chất đa dạng của hồn thơ Nguyễn Trãi, thấy được cái tôi nhà thơ trong đường biên giữa nhà tư tưởng và người nghệ sĩ mà còn giúp ta hiểu và trân trọng hơn về sự mới mẻ, sáng tạo trong tư duy thể loại của một tài năng vượt thời gian, không gian thời đại. Quốc âm thi tập xứng đáng được xem là thành tựu lớn vẻ vang mở đầu đầy ấn tượng cho dòng thơ Nôm nước Nguyễn Trãi - Quốc Âm Thi Tập của tác giả Phạm Luận, có bán tại Nhà sách online NetaBooks với ưu đãi Bao sách miễn phí và Gian hàng NetaBooks tại Tiki với ưu đãi Bao sách miễn phí và tặng Bookmark Xem thêm ĐÁNH GIÁ CỦA ĐỘC GIẢ Hãy đánh giá Nguyễn Trãi - Quốc Âm Thi Tập để giúp những độc giả khác lựa chọn được cuốn sách phù hợp nhất! Nguyễn Trãi - Quốc Âm Thi Tập Giá bán tại NetaBooks ₫ ₫ Tiết kiệm ₫-15%
Or you want a quick look Giới thiệu Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây Hồng Đức quốc âm thi tập nội dung Hồng Đức quốc âm thi tập pdf Đọc Hồng Đức quốc âm thi tập Hồng Đức quốc âm thi tập là tác phẩm của ai Quốc âm thi tập nghĩa là gì Quốc âm thi tập tác giả là ai Quốc âm thi tập lớp 10 Đánh giả nào dựng nhất khi nói về vì trị của tập Quốc âm hồng đức quốc âm thi tập,, Giới thiệu Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập Hồng Đức Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm Đường luật của nhiều tác giả trong đó có Lê Thánh Tông với vai trò người chủ xướng, được sáng tác ở nửa cuối TK XV. Tuy không chỉ giới hạn trong 28 năm niên hiệu Hồng Đức 1470-1497, nhưng phần lớn các sáng tác chắc đã được viết ra trong khoảng thời gian này và có thể cả trong những năm tồn tại sự hoạt động của Hội Tao đàn 1495-1497. Các bài thơ trong tập không để tên tác giả, nhưng chắc chắn họ là nhân sĩ thời Hồng Đức, một số người sau này có thể sẽ tham gia Hội Tao đàn. Một số bài được đoán là của Lê Thánh Tông, hoàn toàn không phải do lời văn “khẩu khí đế vương” mà chính do lời thơ rõ ràng là của người đứng đầu Nhà nước phong kiến ý thức được vai trò của mình đối với vương triều, với đất nước, người đứng đầu phong trào sáng tác thơ văn cung đình ý thức được địa vị chủ xướng, để các văn thần cùng họa. Hồng Đức quốc âm thi tập hiện có 328 bài, chia thành năm môn loại Thiên địa môn môn loại về trời đất 59 bài, gồm những bài vịnh về tết Nguyên đán, vịnh bốn mùa, vịnh mười hai tháng, vịnh năm canh, vịnh trăng, vịnh Hằng Nga.. Nhân đạo môn môn loại về người 4ó bài, phần lớn vịnh các nhân vật Lịch sử hoặc nhân vật truyền thuyết của Trung Quốc và Việt Nam, có một số bài nói về đạo làm người theo quan niệm, trung, hiếu, tiết, nghĩa, một số bài nói về lẽ tứ khoái…, Phong cảnh môn môn loại về phong cảnh 66 bài, có những bài vịnh phong cảnh thiên nhiên hoặc của Trung Quốc hoặc của Việt Nam, có bài vịnh di tích lịch sử trong nước, một số bài nói về tứ thú “ngư, tiều, canh, mục…” ; Phẩm vật môn môn loại về phẩm vật 69 bài, vịnh cảnh vật nói chung như vịnh “phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kỳ, thi, tửu”, vịnh các loại cây tùng, cúc, trúc, mai, một số bài vịnh các loài vật, đồ dùng… ; Nhàn ngâm chư phẩm ngâm vịnh lúc thanh nhàn 88 bài, có thể là những bài sót lại, không xếp vào những mục trên nên đề tài phức tạp, có những bài vịnh cảnh trí thiên nhiên, vịnh nhân vật lịch sử, có bài tự thuật. Đáng lưu ý ở phản này là có tới 45 bài thơ viết về chuyện Vương Tường, có lẽ do người sau chép lẫn vào. Hiện tượng chép lẫn vào Hồng Đức quốc âm thi tập có cả thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Trịnh Căn cũng là điều dễ hiểu, vì tác phẩm do người đời sau sưu tập. Hồng Đức quốc âm thi tập mang đậm bản sắc thơ thời kỳ Hồng Đức – thơ nặng tính chất cung đình nhưng đồng thời thấm đượm lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, dồi dào chất trữ tình. Tập thơ là sáng tác trong cung đình, lại do đích thân vua Lê Thánh Tông chỉ đạo, vì vậy không tránh khỏi những khuôn sáo mang tính chất quan phương từ quan niệm nghệ thuật đến nội dung, hình thức. Về quan niệm nghệ thuật, các tác giả thấm nhuần tinh thần “thi dĩ ngôn chí”, hướng nhiều tới những đề tài, chủ để cao quý. Về nội dung, tập thơ mang tính xướng họa, thù tạc, ca ngợi chế độ phong kiến, ca ngợi nhà vua, ca ngợi trật tự, lễ giáo phong kiến, đồng thời cũng ca ngợi đất nước, lịch sử, danh nhân dân tộc. Về hình thức, đôi khi nặng về trau lời đếo chữ, tính ước lệ tượng trưng khá phổ biến trong thi phẩm, song lại có nhiều sáng tạo rất đáng ghi nhận. Ra đời khi chế độ phong kiến đang ở đỉnh cao thịnh trị, Lê Thánh Tông là một trong những vị vua hiền minh nhất của lịch sử Việt Nam, giai cấp phong kiến vẫn đang là người đại diện cho dân tộc, Hồng Đức quốc âm thi tập đã thể hiện được tinh thần yêu nước, yêu chính nghĩa, ý thức dân tộc và niềm tự hào dân tộc. Nhiều bài thơ trong mục Thiên địa môn, Phong cảnh môn, Nhàn ngâm chư phẩm thể hiện niềm yêu mến thiết tha đối với vẻ đẹp mỹ lệ của thiên nhiên đất nước, niềm vui sướng tuyệt đỉnh trước xã hội thái bình thịnh trị, từ đó toát lên lòng yêu giang sơn tổ quốc. Trong bài Bạch Đằng giang, tác giả vừa ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của non sông, vừa thể hiện niềm tự hào trước những chiến công huy hoàng trên dòng sông lịch sử, – niềm tự hào, niềm vui trước cuộc sống thanh bình mà nhân dân ta đang dựng xây, gìn giữ “Nọ đỉnh Thái Sơn rành rành đó, Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu ? Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc, Thong thả dầu ta búa lưỡi câu”. Chùm thơ Vịnh năm canh có những câu thơ ca ngợi cuộc sống thanh bình thịnh vượng, thể hiện niềm yêu đời, yêu đất nước “Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc, Sườn núi chim gù ẩn lá xanh… Nhà nam, nhà bắc đều no mặt, Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình” Vịnh canh một. Nhiều bài thơ trong mục Nhân đạo môn, Nhàn ngâm chư phẩm thể hiện ý thức dân tộc và niềm tự hào dân tộc qua ý thức về vai trò lịch sử của vương triều Lê Thánh Tông, ý thức về truyền thống dân tộc, ngợi ca những . người con ưu tú của đất Việt như Thánh Gióng, Trưng Nữ Vương, Triệu Ẩu… Trong các bài viếng Lý Ông Trọng, Nguyễn Trực, các tác giả đã so sánh nhân tài Việt Nam ngang hàng với nhân tài Trung Quốc, thậm chí công đức còn lan ra ngoài bờ cõi như trường hợp Lý Ông Trọng đã góp phần to lớn vào việc trị an ở Trung Hoa. Hồng Đức quốc âm thi tập có nhiều bài thơ khắc họa vẻ đẹp nghĩa tình giữa con người với con người như tình yêu tuổi trẻ, niềm hạnh phúc lứa đôi, tình bằng hữu làm ngời sáng lên truyền thống đạo lý, nhân nghĩa của người Việt Nam. Tác phẩm còn có những bài thơ mô tả khá chân thực đời sống nhân dân trong thôn xóm, nơi đồng ruộng với những cảnh lao động lam lũ, vất vả, những cảnh sinh hoạt bình đị, hồn nhiên… làm toát lên tư tưởng thân dân sâu sắc. Chùm thơ tứ thú không chỉ đơn thuần là sự xướng họa theo công thức “ngư, tiều, canh, mục” mà còn khắc họa được hình ảnh cuộc sống người bình dân, lam lũ, cực nhọc, nhưng thật hồn nhiên, chất phác. Ở những bài thơ khắc họa vẻ đẹp tình nghĩa của con người, nhất là trong tình yêu lứa đôi, nhiều tác giả đã có những rung động chân thành, những tình cảm “lãng mạn” vượt ra ngoài khuôn khổ cung đình. Các bài thơ Vịnh Mị Ê, Hoàng giang điểu Vũ nương Vũ Thị Khiết thể hiện niềm cảm thương trước những mối tình éo le, oan khốc, đồng thời khẳng định vẻ đẹp thủy chung trong sáng của người phụ nữ. Trong chùm thơ về Lưu Nguyễn nhập thiên thai, Ngưu Lang Chức Nữ,.tác giả vừa khắc họa những cảnh ngộ éo le của tình yêu, vừa thể hiện vẻ đẹp diễm tình của những mối tình “người tiên – kẻ phàm”. Hồng Đức quốc âm thi tập có những đóng góp lớn trong việc trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc. Đây không những là biểu hiện của lòng yêu nước và ý thức dân tộc mà còn là sự phản ánh bước phát triển to lớn của văn học tiếng Việt. Từ thuần Việt trong tác phẩm có lúc còn vụng, thô, nhưng nhiều khi cũng đã đạt tới mức trau chuốt, vi diệu “Người thơ, khách rượu rộn lời khuyên” Lại vịnh cảnh mùa xuân Hai từ “người thơ” thể hiện tài năng và mẫn cảm nghệ thuật của tác giả. Chính vì dùng từ “người thơ” chứ không phải từ “thi nhân” câu thơ bỗng trở nên xuất sắc, tân kỳ, lột bỏ sự cũ mòn, mang dáng vẻ hiện đại. Những thành ngữ, tục ngữ được vận dụng khá nhiều và khá thành công đã làm giảm bớt ấn tượng nặng nề về những điển tích, điển cố được dùng khá cầu kỳ ở không ít bài thơ. Trong việc sử dụng và sáng tạo từ láy, Hồng Đức quốc âm thi tập là một thành tựu rất lớn. Có những bài thơ được sáng tác chủ yếu bằng từ láy Ngư Giang hiểu vọng, Họa vần bài Vịnh trăng – bài số 10. Có nhiều kiểu láy âm trong tiếng Việt đã xuất hiện, kể cả kiểu láy ba. Có những từ láy với khuôn vần khá hóc hiểm, được sử dụng một cách điêu luyện, tự nhiên. Có thể nói, Hồng Đức quốc âm thi tập là một thế giới từ láy với đầy những bất ngờ thú vị, những khám phá đáng kinh ngạc. Hồng Đức quốc âm thi tập là một dấu mốc đáng lưu ý trong quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật. Mặc dù bị giới hạn trong khuôn khổ lối thơ xướng họa nhưng đề tài, chủ đề của tập thơ vẫn được mở rộng, thể hiện xu hướng phản ánh hiện thực cuộc sống và xu hướng tả thực của Đường luật Nôm trong quá trình phát triển. Ở thi tập này đã có hẳn một hệ thống thơ trào phúng, vừa tiếp cận với thơ trào phúng dân gian, vừa mang được nét hóm hỉnh, thâm thúy của văn chương bác học. Chất trào phúng phảng phất trong nhiều bài, nhiều mục, nhưng tập trung ở mục Phẩm vật môn như vịnh con cóc, con rận, con muỗi, cái cối xay, cái quạt, cây đu.. Mục Phong cảnh môn có – nhiều bài thơ mang nét trào phúng như bài Quở sơn Núi muộn chồng, Tượng bà Banh, Kênh Trâm…Có thể nói Hồng Đức quốc âm thi tập đã góp phần mở ra khuynh hướng trào phúng trong thơ ca tiếng Việt, được các giai đoạn sau kế thừa và phát triển với những đại biểu xuất sắc như Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Tham khảo thêm tư liệu các nhà văn, nhà thơ, tác giả khác Xem thêm Quốc âm thi tập của Nguyễn trãi Nguyễn Trãi 1380 - 1442 là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở "Bình Ngô", danh nhân văn hoá Đại Việt nói riêng và thế giới nói chung. Thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, là biểu tượng cao quý của nền vãn hiến Việt Nam. Điều đó được thể hiện trong tập thơ “Quốc âm thi tập”. Sau cái chết của Nguyễn Trãi, bè lũ gian thần trong triều Lê tiến hành tru di họ tộc nhà Nguyễn Trãi. Thơ văn Nguyễn Trãi cũng bị huỷ, không ai dám tàng trữ. Đời Lê Thánh Tông mới có lệnh cho sưu tầm. Nhưng phải đến năm 1868, nhà nghiên cứu Dương Bá Cung mới sưu tầm và lưu giữ thành công. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi được truyền lại đến ngày nay là thành quả của lần tìm kiếm này. “Quốc âm thi tập” cũng nằm trong số đó. “Quốc âm thi tập” là tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi, cũng là tập thơ Nôm cổ nhất, phong phú nhất của Việt Nam còn lại đến nay. Tập thơ gồm 254 bài chia thành 4 mục Vô đề ngôn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng, tự thuật...; Thì lệnh môn; Hoa mộc môn; cầm thú môn. Phần lớn các bài thơ trong "Quốc âm thi tập" không có nhan đề. Đa phần là thơ tâm sự, tỏ chí hướng, rất khó để biêt thời gian sáng tác của từng tác phẩm. Nội dung của tập thơ hướng đến việc ca tụng thú thanh nhàn, tự hào mình đã “đổi công danh lấy một cần câu”... và cũng để lộ nỗi đau không che giấu là không có cơ hội giúp nước, không gặp người cùng mình thực hiện chí lớn. Ngoài ra, có một sô' bài làm để tự ràn mình, khuyên bảo con cháu trong nhà giữ vững đạo đức, nhân phẩm, theo đúng lời dạy của thánh hiền Bảo kính cảnh giới. Cũng là một khía cạnh của thơ tâm sự, thơ về thiên nhiên là một mảng nội dung lớn trong “Quốc âm thi tập”. Thơ thiên nhiên của Nguyên Trãi hợp với thú an nhàn, làm dịu bớt nỗi đau, trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát. Thể thơ trong “Quốc âm thi tập” rất đặc biệt. Có bài thất ngôn bát cú, có bài thất ngôn tứ tuyệt; nhiều bài giữa những câu 7 tiếng, xen 1 - 2 câu 6 tiếng. Đó là thể thơ riêng của thế kỉ XV. Nguyễn Trãi dùng nhiều ca dao, tục ngữ, nhiều từ cổ, và có ý thức dùng từ thuần Việt thay từ Hán Việt. Đặc điểm nổi bật nhất và cũng là thành công lớn nhất về nghệ thuật của tập thơ là đã sử dụng thành công ngôn ngữ tiếng Việt, chữ Nôm. Từ ngữ trong Quốc âm thi tập được tiếp thu từ những thành tựu vãn Nôm đời Trần, cải biên từ ngữ liệu Trung Quốc, song chủ yếu là chuốt lọc và phát triển từ tiếng nói của nhân dân. Trong tập thơ này, từ thuần Việt chiếm ưu thế hơn so với từ Hán - Việt, từ đơn âm được dùng với số lượt cao, sử dụng hư từ với tỉ lệ cao... Với lượng từ phong phú, có giá trị nghệ thuật, tác giả Quốc âm thi tập không chỉ thành công trong việc diễn tả những trạng huống tình cảm của bản thân mà còn góp phần thúc đẩy ngôn ngữ văn học viết bằng tiếng Việt phát triển. Không chỉ vậy, sáng tác thơ Nôm, Nguyễn Trãi dựa vào thể thơ Đường luật song ông chủ trương 285 phát huy cao độ những yếu tố dân tộc về mặt hình thức như cách gieo vần theo gốc dân gian; lối ngắt nhịp câu thơ khiến nhịp ở cuối câu là nhịp chẵn; đưa câu lục vào trong thơ, dùng xen với câu thất ngôn làm cho bài thơ giàu có về tiết điệu. Đó là điều ít gặp trong thơ Đường luật. Có thể xem đây là biểu hiện nỗ lực của Nguyễn Trãi trong hành trình đi tìm một lối thơ dân tộc. Với những giá trị to lớn về nội dung và nghệ thuật, “Quốc âm thi tập” là tập thơ tiêu biểu trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Trãi. Và từ "Quốc âm thi tập", Nguyễn Trãi đã tự khẳng định mình, như học giả_Lê Trí Viễn từng nhận xét "Nguyễn Trãi là bông hoa đầu mùa tuyệt đẹp của thơ nôm Việt Nam”. Hướng dẫn học Đây là bài viết, có thể dùng làm bài giảng, nay dùng để các bạn tự học nhằm mục đích minh họa cho bài 1, về cảm hứng và cách thể hiện cảm hứng trong khi làm thơ. Mấy lời dặn bạn trước và trong khi tự học, tự đọc 1. Bạn cần luôn luôn nhớ lại định nghĩa về THƠ trong bài trước Thơ là biểu đạt trong sáng của những cảm xúc rối bời W. H. Auden. Hãy nhớ lại định nghĩa đó bằng cách nghĩ đến một người làm thơ tâm hồn rất trong sáng và một hoàn cảnh làm thơ rối bời. 2. Khi lấy Nguyễn Trái làm trường hợp nghiên cứu, các bạn hãy cùng nhau tìm hiểu hoàn cảnh và cuộc đời Nguyễn Trãi, điều đó giúp bạn dễ hiểu hơn số phận rối bời của Nguyễn Trãi và càng thấm thía hơn sự trong sáng trong tâm hồn cụ Ức Trai. 3. Vua Lê Thánh Tông, người có công khôi phục danh tiếng cho Nguyễn Trãi đã viết bài thơ, câu đầu là "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" hiểu là "Lòng cụ Ức Trai sáng tựa sao khuê" như vẫn dịch thoát nghĩa xưa nay. 4. Tiếp đó, bạn cần ghi lại những chi tiết chứng minh cho ý tưởng chủ đạo của bài viết này của giáo sư Đặng Tiến tập thơ Việt Nam đầu tiên. Giáo sư Đặng Tiến trình bày trong bài những yếu tố đầu tiên nào đã khiến Quốc âm thi tập mang tính chất Việt Nam đầu tiên? 5. Cuối cùng bạn nên viết một bài thu hoạch có thể dùng cho Hội thảo Văn của lớp xoay quanh những điều bạn rút ra về cảm hứng làm thơ của cụ Ức Trai. Mời bạn làm việc. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, tập thơ Việt Nam đầu tiên Tiêu đề của bài này gói trọn bộ nội dung lẫn dàn bài, gồm có ba điểm chính Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm Nôm quy mô đầu tiên của nước ta. Đó là tác phẩm đậm đà tính dân tộc. Tác phẩm đó là một tập thơ, trong nghĩa trọn vẹn nhất, nghĩa là dồi dào tính thơ, ngày nay đọc còn thấy thích thú, dù ngôn ngữ dân tộc, trải qua sáu thế kỷ, với nhiều biến cố, đã biến đổi nhiều. Về hai điểm 1 và 2, chúng tôi không có phát hiện gì mới. Chỉ quan trọng phần phân tích thơ trong Quốc âm thi tập, là chúng tôi hy vọng đưa ra vài cảm xúc riêng, lẻ loi và từ tốn. Thơ Nguyễn Trãi chủ yếu nằm trong Ức trai di tập gồm 105 bài chữ Hán, và tập trung trong Ức trai di tập là 234 bài chữ Nôm làm thành Quốc âm thi tập. Những bài này chưa chắc đã hoàn toàn đúng với nguyên tác của Nguyễn Trãi, vì do người đời sau sao lại, và do Dương Bá Cung, người cùng làng với Nguyễn Trãi sưu tập năm 1868. Tuy nhiên, trên số lượng lớn như thế, dù cho không hoàn toàn đúng với nguyên tác, ta cũng được một ý niệm về tư tưởng và nghệ thuật của Ức Trai. Các bản văn này đều được in trong Nguyễn Trãi toàn tập, nhà xuất bản Khoa học xã hội in lần thứ hai tại Hà Nội, 1976, có bày bán tại Paris. Những trích dẫn của chúng tôi đều dựa trên văn bản này. Trước Nguyễn Trãi, dĩ nhiên là đã có người làm thơ bằng chữ Nôm; Đại Việt sử ký toàn thư nhân việc Trần Anh Tông gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mẫn năm 1306, có ghi lại là “Văn sĩ trong triều ngoài nội, có nhiều người mượn điển vua Hán đem Chiêu Quân đi gả cho Hung Nô mà làm thơ bằng chữ quốc ngữ để chê cười”. Như vậy, trước Nguyễn Trãi hàng trăm năm, việc làm thơ Nôm, nhất là trong dân gian đã rất thông thường. Tuy nhiên, tác phẩm chữ Nôm còn lại đến nay không nhiều, nếu không nói là không còn gì. Những tác phẩm có cơ sở nhất như là Cư Trần Lạc Đạo Phú, tương truyền của Trần Nhân Tông, Vịnh Hoa Yên Tự Phú, tương truyền của Huyền Quang, Giao Tứ Phú, tương truyền của Mạc Đĩnh Chi, tìm thấy trong sách nhà chùa viết vào thời Lê, cũng còn đặt nhiều nghi vấn. Ngoài ra, đó là những bài phú, một thể loại nằm giữa thơ và văn xuôi chưa phải thơ. Vả lại, cũng cần nhắc với bạn đọc không có dịp theo dõi đầy đủ văn học nước nhà, một số tác phẩm xưa kia, thời trước cách mạng, được cho là thời Trần-Hồ, ngày nay không còn đáng tin cậy nữa, đó là thơ xướng họa được gán cho Trần Trùng Quang và Nguyễn Biểu, truyện Vương Tường, Trê Cóc, Trinh Thử. Ngày nay, nhiều tư liệu vững chắc về khoa văn bản học có thể giúp chúng ta khẳng định điều đó. Quốc âm thi tập viết bằng tiếng Việt, dĩ nhiên là một tập thơ Việt Nam. Nhưng nó còn Việt Nam ở những lý do sâu xa hơn nhiều. Vì nó gắn bó mật thiết với con người Việt Nam, với đời sống, với phong cảnh Việt Nam và lời ăn tiếng nói Việt Nam. Con người Việt Nam, thời đó, trước hết là người nông dân chân lấm tay bùn. Nguyễn Trãi gắn bó với nhân dân vì xuất thân từ hoàn cảnh nghiệt ngã cha đã nghèo, bản thân ông cũng nghèo cho dù làm quan lớn. Thân phụ ông, Nguyễn Ứng Long, tuy học giỏi đỗ cao, làm rể dòng họ vua, nhưng vì tội phạm thượng, con nhà dân mà dám lấy con cháu nhà vua, nên vẫn không được làm quan, đặc biệt bị vua Nghệ Tông hiềm ghét. Khi nhà Hồ dấy nghiệp, ông mới xuất chính nhưng không bao lâu thì bị quân Minh bắt đầy về Trung Quốc. Khi đọc thơ Phi Khanh tên cũ của Ứng Long, ta cảm thấy sâu sắc những cơ cực của nông dân thời đó. Hàng ngàn dặm lúa cháy xém như bị thiêu đốt; ở chốn thôn dã, dân than thở không còn cách sống nữa. Núi sông đồng ruộng thì khô không khốc, mà mưa móc thì ở trên cao xa xôi, không tới. Bọn quan lại ra sức vơ vét, máu thịt của dân hao hơn một nửa. Bài Thôn cư cảm sự không khỏi nhắc ta những bài thơ của Nguyễn Khuyến năm thế kỷ sau. Hoàn cảnh gia đình Nguyễn Trãi giúp ta hiểu thêm tại sao ở cái thời phong kiến xa xôi đó, ông đã viết “ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày”; thời đó, cho mãi đến gần đây, người ta chỉ nói đến ơn trời, ơn vua, ơn quan chứ không ai nhận chịu ơn người lao động. Và ta cũng từ đó mà hiểu thêm tư tưởng việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, là kim chỉ nam của đời ông. Và chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy, Nguyễn Trãi, một tri thức khoa bảng, cháu ngoại nhà Trần, quan lại nhà Hồ mà trong sự nghiệp chống nhà Minh đã không đứng về hàng ngũ quý tộc hoặc chính thống Hồ - Trần mà lại đứng về phía nông dân, thời đó gọi là “manh lệ”. Ngay từ thời buổi phôi thai của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn như nhiều tư liệu còn ghi lại ông là một trong 18 “hào kiệt” dự lễ thề Lũng Nhai, một địa điểm vùng Lam Sơn, nam 1416. Trong lời tựa của Ức trai thi tập, Trần Khắc Kiệm viết năm 1480 là Nguyễn Trãi vốn “giỏi thiên văn, biết nước ta sẽ có bậc chân chúa ra đời, muốn tìm đến giúp”. Giỏi thiên văn, nhận ra chân chúa, trong thực tế thời đó, có nghĩa là tin vào quần chúng và tương lai dân tộc. Một điểm khác trong tư tưởng Nguyễn Trãi là ông có ý thức rất sớm về văn hóa dân tộc, một khái niệm xuất hiện muộn nhất trong lịch sử loài người. Lời khẳng định trong Bình Ngô đại cáo “nước Đại Việt ta là một nước văn hiến, sông núi bờ cõi đã riêng, phong tục Bắc Nam cũng khác”, một mặt chứng tỏ niềm tự hào dân tộc, mặt khác trình bày một quan niệm văn hóa rất khoa học, mới mẻ nữa là khác. Vì yêu bờ cõi, phong tục nước nhà, Nguyễn Trãi viết Dư địa chí. Ý thức văn hóa dân tộc còn biểu lộ rất rõ khi Nguyễn Trãi không tuân mệnh vua, không hợp tác với Lương Đăng để soạn lễ nhạc cho triều đình. Lý do là Lương Đăng du nhập vô ý thức nhạc Trung Quốc vào nước ta, y mô phỏng tấu nhạc lẫn y phục nhà Minh, kẻ thù có ý định hủy diệt văn hóa một cách có hệ thống và sâu độc, kẻ thù vừa mới bị ta đánh bật khỏi bờ cõi cách đó mới chỉ mười năm. Về sự dốt nát của Lương Đăng ta có thể bỏ qua, còn về thái độ ý thức của y, ta khó có thể chấp nhận, vì vậy mà Nguyễn Trãi mới miệt thị y là “phường tiểu dậu”. Cho đến nay, chúng tôi muốn chứng tỏ Nguyễn Trãi là một người Việt Nam sâu sắc. Có là người Việt Nam sâu sắc, mới làm thơ Việt Nam sâu sắc. Ông quý chữ Nôm, văn tự ghi lại tiếng nói dân tộc thời đó. Số lượng thơ chữ Nôm ông để lại là một sự lạ. Ông còn sưu tập thơ Nôm của Hồ Quý Ly, ta nên nhớ rằng các nhà nho đời đó, và sau nữa như Phan Phu Tiên, Hoàng Đức Lương, cho đến bậc học giả uyên bác như Lê Quý Đôn ba thế kỷ sau, khi sưu tầm thơ, mới chỉ dừng lại ở thơ chữ Hán. Đó là một việc đáng tiếc vì ở giai đoạn này, thơ Nôm đã có một quá trình lớn; và nó chứng tỏ không những lòng yêu tiếng Việt của Nguyễn Trãi mà cả sự tinh tế của ông. Nếu tôi nói đôi mắt Nguyễn Trãi nhìn thông suốt lịch sử của dân tộc, liệu tôi có quá lời chăng? Và nếu tôi nói Nguyễn Trãi, rất sớm, đã biết “thúc thời đại tiến nhanh hơn chút nữa”, hoặc “đã đánh thức bình minh” trong mỗi chúng ta, sáu thế kỷ sau, tôi có liều lĩnh chăng? So với 105 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, con số 234 bài thơ Nôm rất đặc trưng. Con số đó còn có thể cao hơn nữa, vì nếu có thất lạc, thì thơ “mách qué” có nhiều khả năng thất lạc hơn thơ chữ Hán. Đọc Quốc âm thi tập, trước hết là sống trong phong cảnh người Việt Nam, trong ngọn gió đong đưa tàu lá chuối, sống với bụi mía, bóng cây đa già, trong mùi hương hoa mộc, hoa nhài, sau hàng râm bụt hoặc giậu mồng tơi. Cánh hoa đào mỉm cười với gió xuân, quả ổi ngọt ngào trong nắng tháng bảy, mấy luống kê khoai, dăm bè rau muống, bên cạnh những mèo, chó, lợn, trâu đó là lục địa tâm tình của mỗi chúng ta. Và chỉ có thơ Nôm mới gợi được những hình ảnh thân yêu đó. Trong thơ chữ Hán của Ức Trai, rau mục túc của người nghèo tương đương với rau muống. Nhưng chữ rau muống trong ao làng Ao quan thử thả hai bè muống vẫn gần gũi với ta hơn. Nhiều người đã không ngớt lời ca tụng hai câu thơ chữ Hán của Ức Trai Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân Vì luyện xoan là một loài cây của Việt Nam. Tôi ngờ lắm. Dù luyện và xoan dù có tương đương đi nữa, âm hưởng vẫn xa nhau. Giậu thưa hai khóm trúc Câu thơ Nôm này vẫn có khí vị Việt Nam hơn câu La ỷ phương châm ổ lý hoa Gấm vóc huy hoàng dậu nở hoa Chữ ổ không có âm hưởng của chữ dậu. Tôi chạnh lòng nhớ đến Nguyễn Du Dậu thu vừa nảy chồi sương hay của Nguyễn Khuyến Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái hay gần đây hơn Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu đều dùng hình ảnh hàng dậu… Phải chăng Nguyễn Trãi đã đưa hình ảnh làng mạc Việt Nam vào thơ? Nghĩa là đưa thơ vào phong cảnh Việt Nam. Nhưng thơ, trước hết là cách sử dụng ngôn từ. Thơ Ức Trai còn Việt Nam ở chỗ dựa trên lời ăn tiếng nói của nhân dân. Các ông Trương Chính, Cao Huy Đỉnh lấy bài sau đây làm ví dụ vì nhiều câu thơ có dáng dấp của tục ngữ Nguyễn Trãi toàn bài 148 Ở bầu thì dáng ắt nên tròn Xấu tốt đều thì rắp khuôn Lân cận nhà giàu lo bữa cám Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn Chơi cùng đứa dại nên bầy dại Kết mấy người khôn học nết khôn Ở đấng thấp thì nên đấng thấp Đen gần mực đỏ gần son Tục ngữ Ở bầu thì tròn ở ống thì dài Xấu tốt dập khuôn Gần nhà giàu đau răng ăn cốm Gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn Ở chọn nơi, chơi chọn bạn Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng Cao Huy Đỉnh còn so sánh một số câu thơ khác trong Quốc âm thi tập với ca dao tục ngữ. Tôi chỉ thêm vào vài ví dụ Nguyễn Trãi Bia đá hay mòn nghĩa chẳng mòn Chúa giàn nẻo khỏi tan con nghé Hòn đất hầu làm mất cái chim Sừng hằng những mọc quá tai Sen nào có lấm trong bùn Ai từng phú quý mấy trăm trời Dễ hay ruột biển sâu cạn Không biết lòng người ngắn dài Đất nào hay cãi được người ta Còn miệng tựa bình đà chĩu giữ Thấy nơi xao xác đã mày nề Có sự cầu người nên nể mặt Cửa nhà bịn rịn tổ ong tàn Hết duyên như tổ ong tàn trời mưa Muốn ăn trái dưỡng nên cây Ai học thì hay mưa lệ dài Ngậm ruồi nào chết bát bồ hòn Thế sự trai yêu thiếp mọn Nhân tình gái nhớ chồng xưa Tật được tiêu nhờ thuốc đắng hay Ghê thế biến bạc làm đen Vàng thật âu chi sợ lửa thiêu Nếu có sâu thì bỏ canh Tay ai thì lại làm nuôi miệng Làm biếng ngồi ăn lở núi non Nên thợ nên thầy vì có học Ca dao tục ngữ Trăm năm bia đá cũng mòn Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Sẩy đàn tan nghé Đất bụi lại ném chim trời Chim trời bay mất đất rơi xuống chùa Sừng mọc quá tai Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn Ai giàu ba họ, ai khó ba đời Sông sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm khó đo cho cùng Hòn đất mà biết nói năng Thì thầy địa lý hàm răng không còn Giữ miệng như đút nút bình Mặt nặng mày nề Cầu người nể mặt Còn duyên như tượng tô vàng Ăn trái nhớ kẻ trồng cây Ăn vóc học hay Mật ngọt chết ruồi Ngậm bồ hòn làm ngọt Trai yêu vợ bé gái nhớ chồng xưa Thuốc đắng giã tật Đổi trắng thay đen Vàng thật không sợ lửa Con sâu làm giàu nồi canh Tay làm hàm nhai tay quai miệng trễ Ngồi ăn núi nở Không thầy đố mày làm lên Đọc Quốc âm thi tập kỹ hơn có thể còn nhiều ví dụ khác. Câu thơ Nguyễn Trãi Của nhiều sơn dã đem nhau đến Khó ở kinh thành ít kẻ han được các ông Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương cho là xuất từ khẩu ngữ Hán “bần cư trung thị, vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. Rất có thể, nhưng khả năng Nguyễn Trãi dựa vào câu ca dao ta, có thể bắt nguồn từ chữ Hán Khó ngồi giữa chợ không ai màng Giàu ở trong hang ai cũng đến Ngoài ra, Ức Trai rất dồi dào những từ thuần Việt từ bữa cơm dưa muối đến nong tằm ươm lúc nhúc hay khóm đất đá ong. Tôi sẽ bàn thêm về những từ này ở đoạn cuối khi nói về thi tính trong thơ Nguyễn Trãi. Vấn đề đầu tiên của người làm thơ là chọn thể loại. Nó phải hết sức gay gắt với Nguyễn Trãi, ở buổi bình minh của thi ca Việt Nam, khi mà thơ ca của chúng ta chưa có thể loại. Hiện nay, chưa có một chứng tích nào về thơ lục bát, song thất lục bát vào thế kỷ XIV. Những bài thơ thời Nguyễn Trãi, trong đó có thể có Nguyễn Trãi, phải vạch lối, tìm đường, để thoát ly ra khỏi khuôn khổ thơ Trung Quốc. Trên số 254 bài trong Quốc âm thi tập, chỉ có 71 bài làm theo thể thơ Đường luật. 183 bài còn lại, nghĩa là đa số, là những bài thơ phá thể, cấu trúc tương tự thơ Đường về phương diện đối ngẫu nhưng số chữ thì tự do, bảy chữ chen với sáu, có khi năm chữ. Và khi số chữ thay đổi, thì tương quan bằng trắc, tự nhiện, cũng phải thay đổi. Cứ lấy bài đầu trong Quốc âm thi tập làm ví dụ Góc thành nam, lều một gian No nước uống, thiếu cơm ăn Con đòi trốn đường ai quyến Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăn Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải Góc thành nam, lều một gian So với thơ Đường thì bài này đã khác lạ, về hai mặt niêm và luật, nghĩa là về cấu trúc nhạc điệu, cơ bản của ngôn ngữ thi ca. Dĩ nhiên là Nguyễn Trãi vẫn tôn trọng quan hệ của vần, nhưng vần là một thành tố thông thường của thi ca thế giới. Thể thơ phóng túng, so le này còn được phát triển ít nhất một thế kỷ sau, vì trong Hồng Đức quốc âm thi tập, trên con số 328 bài, ta còn thấy nhiều bài theo kiểu 6 chen 7 chữ. Tiếc thay giữa sức ép của thơ bác học Đường luật và thơ dân gian lục bát được phát hiện và phát triển về sau, thể loại 6-7 đã dần biến mất. Định mệnh đó phù du vì nó là thí nghiệm buổi đầu của lịch sử thi ca Việt Nam. Quốc âm thi tập là một thí nghiệm kiên trì, có ý thức, có quy mô lớn của Nguyễn Trãi. Con số rất lớn 183 bài, 5/7 toàn bộ thơ Nôm, chứng tỏ ông là nhà thơ có suy nghĩ chín chắn về kỹ thuật ngôn ngữ thơ, chứ không phải làm tùy tiện, tùy thích, tùy hứng. Xin thêm một chứng cớ khác để diễn đạt một ý, khi mà ông làm thơ chữ Hán thì ông tuân theo Đường luật một cách nghiêm túc Môn tiền nhất phái tào khê thủy Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần Trái lại, khi dịch câu thơ đó ra chữ Nôm ông lại thoát ly khỏi quy luật đó Tào khê rửa ngàn tầm suối Sạch chẳng còn một chút phàm Đó phải chăng là trường hợp của Nguyễn Khuyến về sau này, khi làm thơ chữ Hán thì theo các thể thơ Trung Quốc, nhưng khi chuyển sang những bài thơ chữ Nôm thì lại dùng các thể thơ Việt như Ly phu hành Lời gái hóa, Ưu phụ từ Lời vợ phường chèo. Tôi không trích dẫn bài Di chúc rất nổi tiếng vì có người cho rằng bản chữ Hán mới là của Yên Đổ còn bản chữ Nôm là của người khác. Tóm lại, Nguyễn Trãi không phải là nhà nho chỉ làm thơ lúc tửu hậu trà dư như phần lớn các nhà nho. Mà là một nho sĩ có ý thức cao về nghệ thuật thi ca của mình, trong nguồn thơ dân tộc. Nhờ ý thức đó, ông đã thấy rõ, và khai thác sâu, thi tính trong ngôn ngữ Việt Nam. Thơ chữ Hán hay ở chỗ súc tích, do những thực từ, chủ yếu là danh từ tạo nên. Thơ Việt hay ở chỗ mung lung, nhờ những hư từ hay bán thực từ. Nguyễn Trãi thấy rõ điều này từ rất sớm và đặc biệt khai thác những cảm từ, một từ loại đặc biệt giàu hình tượng, tượng thanh, gợi cảm và rất khó dịch ra tiếng nước ngoài, như là lãng thãng, lãng đãng, chon von, luẩn quẩn, lanh chanh, tênh hênh, lểu thểu, lừng lựng, thưa thưa, phơ phơ, lẽo đẽo, đủng đỉnh, xềnh xoàng, chênh chênh, lao xao, lay thay, tớp tớp, phây phẩy, im ỉm, bát ngát… Những cảm từ đó tạo một vẻ đẹp riêng cho thơ Việt Nam, từ ca dao đến truyện Kiều, đến thơ mới. Như trong thơ Nguyễn Khuyến Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu… Vẻ đẹp kín đáo, dịu nhẹ mà ta gặp ở thơ Nguyễn Trãi cách đây sáu thế kỷ Quáng nắng thưa thưa bóng trúc che Chúng ta tưởng chừng như đang Đi giữa đường thơm của Huy Cận. Tâm hồn thanh cao của Ức Trai tạo nên một vòm trời tinh khiết. Vũ trụ thơ của Ức Trai là một áng mây bên suối, một ánh trăng trong khoang thuyền, tiếng chim kêu trong rặng hoa, là giọt sương trên đồi cúc. Đọc thơ Ức Trai, ta thấy lòng mình thanh thoát hơn một chút Đạp áng mây, ôm bó củi Ngồi bên suối, gác cần câu Hoặc là Bẻ cái trúc, hòng phân suối Quét con am để chứa mây Hình ảnh tái tạo tân kỳ. Qua đó ta thấy lung linh một tia sáng trong trẻo, vóc dáng một con người vừa xa xôi, vừa gần gũi. Một tâm hồn thanh cao làm chủ vũ trụ vì làm chủ được lòng mình, trên biên giới giữa vô cùng và hữu hạn. Thơ Nguyễn Trãi nói nhiều đến lưu lạc, cơ cầu nhưng nói chung, Quốc âm thi tập là một không gian hạnh phúc vì dường như Nguyễn Trãi đã giải quyết những vấn đề lớn lao của lương tâm. Và giải quyết bằng tình yêu. Ông yêu tổ quốc, yêu dân tộc, điều đó đã nhiều người nói. Ông còn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống trong những nét tầm thường nhất. Không dám phát cây vì rừng tiếc chim về, không nuôi cá vì ánh trăng yêu mặt hồ phẳng lặng. Lắng nghe niềm tịch mịch của đêm thâu, ông sợ tiếng chày khuya làm tan vỡ mặt trăng. Ta khó có thể tưởng tượng được tâm hồn nhạy cảm ấy đã từng viết Quân trung từ mệnh và Đại cáo Bình Ngô Cho đến câu thơ này mới thấy tinh thần Hé cửa đêm chờ hương quế lọt Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan “Lệ”, chữ cổ nghĩa là e ngại, lo sợ. Nội dung câu thơ nói lên tình cảm tế nhị sâu lắng của Nguyễn Trãi với thiên nhiên, với cuộc sống. Những hình hình ảnh trong câu thơ giao thoa với nhau, tạo một nguồn sáng kỳ diệu. Hương quế, bóng hoa là những thực tế hiện hình đang biến vào cõi vô hình, đang tan ra một mùi hương, nhòe đi thành một cái bóng. Từ thể phách biến tinh anh. Khi gần đây Xuân Diệu viết Phất phơ hồn của bông hường Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng Là cũng phát triển ý đó. Bóng hoa, hương quế là môi giới giữa cõi thực và cõi mộng, và cũng là môi giới giữa không gian và thời gian. Cũng như cửa và hiên là không gian môi giới, giữa cái trong và cái ngoài, giữa cái riêng và cái chung, giữa con người và vũ trụ, cũng như chữ thềm, chữ ngõ thi nhân đời xưa rất chuộng. Hai câu thất ngôn rất cân đối nhờ vị trí của ác động từ hé, chờ, lọt, quét, lệ, tan ở đầu, giữa và cuối câu. Hai động từ chờ và lệ gợi ra được những rung động mong manh của thời gian. Chủ từ ẩn là ta ta chờ, ta lệ, theo nghĩa câu thơ; nhưng cấu trúc văn phạm tạo cảm giác chủ từ đêm, ngày đêm chờ, ngày lệ. Nguyễn Trãi , một cách tinh vi đã lồng tình cảm vào thời gian, và vào cả bóng hoa, hương quế. Về âm thanh, một số nguyên âm và phụ âm láy lại tạo một nhạc tính ý vị cho câu thơ. Ta khó có thể tưởng tượng là lúc tranh tối tranh sáng của thời hửng đông của thi ca Việt Nam mà Nguyễn Trãi đã làm được một câu thơ tân kỳ, nhuần nhuyễn như thế. Tôi chỉ chọn một vài ví dụ để gợi lại cho bạn đọc một khái niệm về thơ Quốc âm của Ức Trai, muốn phân tích nghiêm chỉnh thi pháp của Ức Trai, phải có một công trình nhiên cứu quy mô, vượt khỏi giới hạn một bài báo ngắn, chỉ dừng lại ở mục tiêu gợi ý và giới thiệu. Trong bài này chúng tôi đã gợi ra nét chính trong thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi. Trước hết, tôi đã đặt Quốc âm thi tập vào bối cảnh lịch sử văn hóa của nó, ở đầu thế kỷ XV, thời bình minh của văn học chữ Nôm, văn học dân tộc, để chứng minh phần đóng góp quý báu của Nguyễn Trãi trong việc khơi nguồn. Sau đó tôi đã trình bày tính cách dân tộc của thơ Nguyễn Trãi, từ hình ảnh, ngôn ngữ đến rung cảm. Cuối cùng, tôi cũng muốn chứng tỏ là nếu ngày nay, ta còn đọc thơ Nôm Nguyễn Trãi, không chỉ vì một nhiệm vụ nào đó với người xưa, nhân một ngày kỷ niệm, cũng không phải cái thú tầm chương tích cú. Mà vì thơ Nguyễn Trãi hay. Ngày nay vẫn còn hay. Tôi chỉ ân hận là chưa có điều kiện viết sâu hơn. Nhưng nghĩ cho cùng, những mối tình lớn trong đời mình, sống, sống còn chưa trọn. Nói, nói làm sao cho hết? cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây Hồng Đức quốc âm thi tập nội dung Hồng Đức quốc âm thi tập pdf Đọc Hồng Đức quốc âm thi tập Hồng Đức quốc âm thi tập là tác phẩm của ai Quốc âm thi tập nghĩa là gì Quốc âm thi tập tác giả là ai Quốc âm thi tập lớp 10 Đánh giả nào dựng nhất khi nói về vì trị của tập Quốc âm See more articles in the category Là ai
1. Tập thơ “Quốc âm thi tập” + Vị trí tập thơ gồm 254 bài, là tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt. + Nội dung phản ánh vẻ đẹp con người NT - Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân - Tình yêu thiên nhiên quê hương, con người và cuộc sống. + Nghệ thuật sáng tạo trong thể thơ Nôm Đường luật, có xen câu lục ngôn với câu thất ngôn. + Bố cục gồm bốn phần SGK. 2. Bài thơ + Xuất xứ bài thơ số 43/61 bài trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” trích “Quốc âm thi tập”. + Hoàn cảnh sáng tác ước đoán bài thơ được sáng tác trong thời kỳ NT lui về sống ẩn dật ở Côn Sơn. + Chủ đề bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống của NT. Đồng thời bộc lộ khát vọng về một cuộc sống thái bình hạnh phúc cho nhân dân. Hoạt động 2 Đọc – hiểu 6. Em hãy phân tách bố cục bài thơ? Nêu nội dung từng phần? 7. Câu 1 có nội dung gì? Em hãy suy đoán về hoàn cảnh sống của nhà thơ lúc bấy giờ? Định hướng để hiểu đúng tâm trạng, nỗi lòng của nhà thơ. 8. Tác giả đã lựa chọn những hình ảnh cụ thể nào để miêu tả bức tranh thiên nhiên? Ở đó có những màu sắc gì? Từ ngữ thuộc loại từ gì? Nhận xét về bức tranh cảnh vật ấy? 9. Tác giả còn cảm nhận cảnh vật qua những âm thanh nào? Biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở hai câu thơ này? Từ âm thanh đó gợi lên một cuộc sống như thế nào? 10. Tác giả đã cảm nhận và miêu tả bức tranh cảnh vật bằng những giác quan nào? Điều đó thể hiện tình cảm gì của nhà thơ? 11. 2 câu kết diễn tả nội dung gì? Nhận xét về nhịp thơ ở câu cuối? Câu thơ giúp ta hiểu tấm lòng của NT đối với người dân ntn? Câu thơ làm thức dậy nỗi niềm sâu kín gì của tác giả? Tư tưởng gì được thể hiện ở đây? GV mở rộng thời chiến, thời bình Hoạt động 3 Củng cố 12. Nêu vài nét chính về nghệ thuật bài thơ. 13. Khái quát lại nội dung toàn bài thơ? IV. Đọc – hiểu 1. Sáu câu đầu bức tranh cảnh vật và cuộc sống ở quênhà của tác giả. nhà của tác giả. a Hoàn cảnh sống GV lưu ý cách ngắt nhịp 1/2/3 và sự phân bố các thanh bằng – trắc. Đồng thời nhắc lại hoàn cảnh sáng tác bài thơ. + Rồi rỗi rãi, rãnh rỗi hóng mát, dạo chơi. + Ngày trường ngày dài một sự an nhàn bất đắc dĩ – tác giả cố gắng đè nén, khắc phục. b Cảnh vật – cuộc sống + Hình ảnh - Hoè lục • đùn đùn • rợp trương - Thạch lựu – phun thức đỏ. - Hồng liên – tịnh mùi hương. Động từ, tính từ gợi tả, gợi cảm. Bức tranh thiên nhiên ngày hè hiện lên với những hình ảnh rất đặc trưng, rực rỡ, đầy sức sống qua sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ. + Am thanh - lao xao - dắng dỏi Cuộc sống vui tươi , yên ả, thanh bình. * Tình yêu thiên nhiên và tình cảm gắn bó sâu đậm với cuộc sống ở quê nhà. Chuyển ý bên cạnh đó còn là tấm lòng yêu nước, thương dân; là lý tưởng hoài bão cao đẹp của nhà thơ. 2. Hai câu cuối tấm lòng của tác giả. + Nhịp thơ câu 8 2/2/3 Ngắn gọn, dồn nén cảm xúc của cả bài thơ. Ước mong, khát vọng cao đẹp về một cuộc sống thái bình, hạnh phúc cho muôn dân. Thức dậy nỗi niềm trăn trở sâu kín của tác giả – suốt đời vì nước, vì dân. * Tư tưởng nhân nghĩa–điểm kết tụ của hồn thơ Ức trailà lý tưởng hoài bão một đời ôm ấp, canh cánh bên lòng của NT. V. Tổng Kết + Nghệ thuật Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm, hình ảnh gần gũi, câu chữ ngắn gọn, dồn nén cảm súc. + Nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng yêu nước thương dân tha thiết của tác giả. 4- Dặn dò Học thuộc bài bài tập 1 – SGK tr119. Xem bài “Tóm tắt văn bản tự sự”. Ngày soạn 5/11 Tuần 13 Tiết 39 Làm văn TÓM TẮT VĂN BẢN TỰ SỰ A/ Mục tiêu bài học A/ Mục tiêu bài học - Giúp học sinh trình bày được tóm tắt văn bản tự sự theo nhân vật chính - Biết cách tóm tắt văn bản tự sự theo nhân vật chính B/ Phương tiện thực hiện SGK, SGV Ngữ văn 10 cơ bản C/ Cách thức tiến hành Kết hợp các hình thức trao đổi, thảo luận, thực hành từ láy tượng thanh, đối, đảo ngữ D/ Tiến trình lên lớp 1. Ổn định sĩ số, đồng phục, vệ sinh. 2. Kiểm tra bài cũ cách viết đọan văn trong văn tự sự ? 3. Giới thiệu bài mới Họat động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt Họat động 1 * Cho học sinh đọc hoặc kể một văn bản tự sự tùy ý và tóm tắt – Sau đó hỏi học sinh - Tóm tắt văn bản nhằm mục đích gì ? - Khi tóm tắt văn vản cần phải có những yêu cầu nào ?
nội dung quốc âm thi tập