Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 3 tháng 1 năm 1766 – 1820) tên tự là Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ (南海釣屠), là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân Truyện Kiều (Nguyễn Du): Trọn bộ 3254 câu thơ Lục Bát. Truyện Kiều được mệnh danh là một trong những tác phẩm kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại. Tác phẩm Truyền Kiều là sự kết hợp từ những tinh hoa của nhiều thể loại văn học mang đến giá I. Đôi Nét Về Nhà Thơ Nguyễn Du – Nguyễn Du 阮攸 (13-1-1766 – 16-9-1820), tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều -Vẻ đẹp TV miêu tả rõ nét, cụ thể từ khn mặt tròn đầy, ngời sáng, rạng rỡ trăng rằm; đến nụ cười tươi thắm hoa; giọng nói quý ngọc; tóc mềm mại, bồng bềnh mây da trắng tuyết -> Chân dung Thúy vân qua ngòi bút Nguyễn Du chân dung có nét có hình, có màu sắc, có âm Phân tích tác phẩm Nhàn – Mẫu 6. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc, lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không Vay Tiền Nhanh. Tháng Ba 13, 2011 at 209 chiều Nguyễn Du 1765- 1820 là Đại thi hào dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác văn chương bất hủ của mọi thời đại. Cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều qua thể hiện tài tình của Nguyễn Du đã làm rơi bao nước mắt của lớp lớp thế hệ người Việt. Thơ viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều xưa nay rất nhiều, nếu sưu tập lại sẽ thành một cuốn sách dày. Ở đây chỉ chọn một số bài tiêu biểu. Có thể mỗi người có sự lựa chọn khác nhau. Đây chỉ là sự lựa chọn chủ quan của cá nhân. Trong một số bài thơ có tả phần mộ Nguyễn Du “sè sè nắm đất bên đường” như mộ Đạm Tiên. Đó là do các tác giả đến thăm khi khu mộ chưa được tôn tạo. Chính tôi PDK cũng đã từng đến thăm mộ Nguyễn Du vào năm 1963 và thấy cảnh hiện ra trước mắt đúng như vậy xin xem “Một chuyến tham quan đặc biệt” . Lăng mộ Nguyễn Du mới được tôn tạo vào năm 1989 . Sau đây là một số bài thơ về Nguyễn Du và Truyện Kiều do Phan Duy Kha sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu . * ĐỀ TỪ CỦA PHẠM QUÝ THÍCH Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường Bán thế yên hoa trái vị thường Ngọc diện khởi ưng mai thủy quốc Băng tâm tự khả đối Kim Lang Đoạn trường mộng lý căn nguyên liễu Bạc mệnh cầm chung oán hận trường Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đáo để vị thùy thương . Bản dịch của Phạm Quý Thích Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan Yên hoa bao trắng nợ hồng nhan Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng Vẻ ngọc chưa phai chốn thủy quan Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp Một dây bạc mệnh dứt cầm loan Cho hay những kẻ tài tình lắm Trời bắt làm gương để thế gian. Bản dịch của Lê Thước Hồng nhan ví chẳng đến Tiền Đường Nửa kiếp yên hoa nợ vẫn mang Mặt ngọc dễ hầu vùi đáy nước Tiết băng không thẹn dối lòng chàng Đoạn trường tỉnh giấc nguồn cơn rõ Bạc mệnh đàn xong mối hận vương Một mảnh tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đau xót tỏ tình thương . Bản dịch của Phan Duy Kha Người đẹp ví không đến Tiền Đường Nửa đời chưa trả nợ còn vương Mặt ngọc há đành vùi đáy nước Tiết băng đâu thẹn gặp Kim Lang Mộng tỉnh “đoạn trường” nguồn cơn tỏ Đàn xong “bạc mệnh” hận còn mang Một mảnh tài tình muôn thuở lụy Tân Thanh này để tỏ đau thương * TỔNG VỊNH NÀNG KIỀU Kiều nhi giấc mộng bặt như cười Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi Số kiếp bởi đâu mà lận đận Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi Cành thoa vườn Thúy duyên còn bén Ngọn nước sông Tiền nợ chửa xuôi Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi . KIỀU BÁN MÌNH Thằng bán tơ kia dở dói ra Làm cho bận đến cụ Viên già Muốn êm phải biện ba trăm lạng Khéo xếp nên liều một chiếc thoa Đón khách mượn màu son phấn mụ Bán mình chuộc lấy tội tình cha Có tiền việc ấy mà xong nhỉ Ngày trước làm quan cũng thế a ? Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến có 4 bài, ở đây chỉ chọn 2 * TỔNG VỊNH TRUYỆN KIỀU Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương Sắc tài chi lắm để làm gương. Công cha bao quản liều thân thiếp Việc nước xui nên phụ nghĩa chàng. Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh Duyên may run rủi lưới Tiền Đường Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng. BÀI THƠ ĐẦU TRUYỆN KIỀU 1 Trời sá ghen đâu khách má hồng Đoạn trường nợ lắm phải đền xong, Hiếu tình chất nặng đôi vai gánh, Thân thế xoay quanh một giấc mòng, Giọt nước sông Tiền oan dễ trắng Ngắm trăng hiên Thúy vẻ còn trong. Một thiên chép để làm gương lại Trời sá ghen đâu khách má hồng. 2 Chẳng lọ than thân, lọ trách trời Má đào ai có khác chi ai. Tiền đường ví hẳn nay đành kiếp, Kim Trọng vì đâu trước nặng lời ? Khi biến, khi thường nào phải một Chữ tài, chữ mệnh dễ hòa hai. Mười lăm năm ấy gương nghìn thuở, Ả Lý, nàng Oanh được mấy người ? Chu Mạnh Trinh Chu Mạnh Trinh có 20 hồi vịnh Kiềuvà 1 bài Tổng vịnh, ở đây chỉ chọn 3 bài * VỊNH KIỀU Tiếng trống biên đình bốn phía ran Tướng quân chi tiếc cái hoa tàn Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan Tổng đốc ví thương người bạc phận Tiền Đường đâu đã mả hồng nhan Bơ vơ nấm đất ven sông đó Hồn có nghe chăng một tiếng đàn . Tản Đà * MỐI TÌNH ĐẦU Gọi đời là ” Cõi người ta” Sao nghe thấm thía xót xa nỗi mình? Tố Như ơi, lụy và tình Nghìn xưa như bóng với hình y nguyên Tình Kiều nếu bén duyên Kim Thủy chung vẫn tiếng con chim gọi lòng Một đời trải mấy long đong Tha hương vẫn giọt máu hồng cố hương! Dù cho người khách viễn phương Gươm vàng nửa gánh , biên cương một trời Uy danh lệch đất nghiêng trời Vẫn vầng trăng ngọc, vẫn lời thề xưa. . . Tiền Đường rửa hết oan thơ Mười lăm năm ấy bây giờ là đây Tờ hoa đó, tóc mây này Vẫn nguyên hương sắc như ngày yêu nhau ! Hồ Dzếnh * CẢM ĐỀ ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH Oan nghiệt khư khư buộc lấy mình Xót cho tài sắc lại đa tình. Gió mưa năm ngón, hai hàng lệ, Cát bụi mười phương một chữ trinh. Giữa cuộc bao phen liều nhắm mắt, Trong mưa nửa kiếp đã in hình, Đoạn trường tiếng ấy nghìn thu mới, Trang cảo thơm còn dấu hiển linh. 2 Trăng xế hoa gần, đêm tịch liêu, Sử phong tình ngát, sóng tình xiêu Văn Hà Tĩnh, truyện đời Gia Tĩnh. Nhớ Át Kiều, thương nghiệp Thúy Kiều Hòn đá ba sinh lăn lóc mãi Tấm lòng thiên cổ vấn vương nhiều. Mua vui cũng được . . .ai người khóc Hoài cảm riêng mình thử nối điêu. Vũ Hoàng Chương Vũ Hoàng Chương có 5 bài vịnh Kiều, ở đây chỉ chọn 2 bài * KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều Hỡi lòng tê tái thương yêu Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh Ngổn ngang bên nghĩa, bên tình Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao ? Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường ! Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng Nhân tình, nhắm mắt, chưa xong Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như ? Mai sau dù có bao giờ Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay . Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người Trải bao gió dập sóng dồi Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha Đau đớn thay phận đàn bà Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân ! Ngẫm xem qua kiếp phong trần Đời vui nay đã nửa phần vui đây Song còn bao nỗi chua cay Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh Cũng loài hổ báo ruồi xanh Cũng phường gian ác hôi tanh hại người ! Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày Hỡi người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng người ! Sông Lam nước chảy bên đồi Bỗng nghe trống dục ba hồi gọi quân. . . Tố Hữu * THĂM MỘ CỤ NGUYỄN DU Thật kỳ lạ nơi Nguyễn Du nằm đó Cũng cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Cũng nấm mộ sè sè ngọn cỏ Trong trang Kiều tôi đọc dưới đèn khuya. Không phải tiết sụt sùi tháng bảy Ánh chiều hè man mác hàng dương Đỉnh Hồng Lĩnh soi dòng Lam cuộn chảy Tiếng cuốc cào lách cách giữa đồng nương. Tìm mộ Nguyễn Du như Kim Trọng tìm Kiều Qua nhịp cầu ai đó ghé trông theo Giữa khoai lúa người nằm giản dị Phảng phất hương bay trong gió chiều. Tiếng người hát xưa thấm đầy nước mắt Thấm vị đời cay đắng khổ đau . Hai thế kỷ đi qua trên nấm đất Mấy kiếp người, mấy cuộc bể dâu. Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước Giở trang Kiều còn rung động ý thơ. Thơ Người mãi sống cùng đất nước Dù mai sau dù có bao giờ. . . Hoàng Trung Thông * BÊN MỘ CỤ NGUYỄN DU Tưởng là phận bạc Đạm Tiên Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây Ngẩng trời cao, cúi đất dày Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình Một vùng cồn bãi trống chênh Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề Hút tầm chẳng cánh hoa lê Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non Xạc xào lá cỏ héo hon Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi Lặng yên bên nấm mộ rồi Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm. Không cành để gọi tiếng chim Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời Không vầng cỏ ấm tay người Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu Thanh minh trong những câu Kiều Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân. Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân Phong trần còn để phong trần riêng ai Bao giờ cây súng rời vai Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên 1 Trái tim lớn giữa thiên nhiên Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa. . . 1982 Vương Trọng 1 Bài thơ này làm năm 1982, mãi đến năm 1989 lăng mộ Nguyễn Du mới được xây dựng như mong muốn của tác giả. * NGOẢNH MẶT GIANG ĐÌNH Rặng bần áp bến đò ngang Để sông Lam chẳng lẫn sang sông Tần Đỉnh Hồng gấp cánh phù vân Chín mươi chín ngọn in ngần trời quê Bên sông buổi ấy người về Mon men tùng cúc thu kề ngoài song Giang Đình 1 kề mảnh trăng trong Tiếng chày ánh lửa động lòng cố hương Vớt lên khói sóng Tiền Đường Trăm năm này cõi vô thường người ta Bụi hồng bạc xóa lau xa Tiếng Kiều đồng vọng cỏ hoa cúi đầu Sông in núi chẳng thay màu Ngả dài điệu sóng thuyền câu bập bềnh Giang Đình ngày rộng thênh thênh Cánh buồm xa thoắt qua ghềnh triều lên Cỏ thơm Vạt áo Tiên Điền Thi nhân chừng mới như biền biệt đây Chiều tà buộc nắng lưng cây Biết đâu mây trắng còn ngây lối về. . . Phạm Trọng Thanh 1 Giang Đình là một bến đò cổ ở quê hương Nguyễn Du, nơi Nguyễn Du có làm bài thơ ghi lại việc đón thân phụ là Nguyễn Nghiễm về quê. Giang Đình là một trong Nghi Xuân bát cảnh Giang Đình cổ độ. * VIẾNG MỘ NGUYỄN DU Thắp hương cúi xuống lạy người Nắng nung mặt đất nghe trời quặn đau Gợi lên một ngọn dầu hao Mắt rung bóng ngựa, nao nao vó chiều Đường chôn dấu bước Thúy Kiều Hiu hiu hương nắng, tím đèo mây trôi Ra về dặm nhớ xa xôi Cỏ non ở lại, riêng tôi dặm buồn. Nghi Xuân, 1988 Hải Bằng * NHỚ TỐ NHƯ Mấy trăm năm đã qua rồi Gò đất nấm mộ của Người còn đây Ngay bên vạt ruộng đang cày Gốc cây buộc ngựa thì nay chẳng còn Nhưng không mất được lối mòn Đẹp như sợi chỉ để con tìm về Cái thời rất khó khen chê Vua thì hại gái vừa mê đàn bà Cái thời có một bông hoa Như sinh ra chỉ để mà vô duyên Cái thời có một người em Đưa mình thế chị ở trên đời này Cái thời ngẫm lạ lùng thay Những người chân thật lại hay tội tình Những người biết phải làm thinh Còn đâu như ở nước mình nữa không Nhà thơ đứt ruột, đứt lòng Phải đi mượn chuyện bên sông nước người Chuyện xa xưa, chuyện cũ rồi Để mà nói những buồn vui nước mình. . . Càng khi đất nước thanh bình Thơ Người càng được chúng sinh nhắc nhiều Nước non có một Truyện Kiều Bao nhiêu lần đọc, bấy nhiêu lần buồn Đã đành thuở ấy nước non Nhân tình thế thái chẳng còn ra chi Dân nghèo và nước đang suy Cô Kiều cực nhục có gì lạ đâu. . . Thế mà trong cuộc bể dâu Người xem vương miện trên đầu như không Truyện Kiều con đọc đã xong Gần ba thế kỷ, đọc trong một chiều Người ơi, Người viết Truyện Kiều Về xem đất nước quá nhiều đổi thay. . . 1994 Phạm Việt Thư * VIẾNG CỤ NGUYỄN DU Bên mồ thi sĩ lệ tuôn rơi Hậu thế tìm đâu để có người Thương phận má đào cơn gió dập Xót đời mệnh bạc cánh bèo trôi Ghê phường trục lợi tài xu thế Gớm lũ tham danh giỏi nịnh thời Tam bách niên dư thiên hạ phục Trước mồ thi sĩ lệ tuôn rơi . 1993 Phan Mạnh * ĐỌC LẠI NGUYỄN DU Quá khuya – chợt thấy mình già Nhìn ra cửa sổ, mưa sa kín trời Một đời gọi mãi , người ơi! Một đời khát vọng , một đời bồng bênh Mê say là chuyện đã đành Biết đâu tỉnh lại, nhân tình trắng phau! Áo cơm se sắt mái đầu Thương nhau mà giận, ngó nhau mà buồn! . Rạc rài chút phận văn chương Cao sang nhòe lẫn tầm thường, ngẩn ngơ. . . Bằng Việt * THĂM NHÀ THỜ CỤ NGUYỄN DU Mù sương chầm chậm sông Lam Heo heo vàng lá nhuốm hàng tre quê Cánh cò rời rã chân đê, Khí thu mờ mịt vọng về hồn xưa Bút nghiên khóc những vần thơ “Một thiên bạc mệnh” đến giờ còn đau Cuộc đời bãi bể nương dâu Đìu hiu mặt nước, phau phau sóng cồn “Đoạn trường” càng ngẫm càng thương Run run thắp một nén hương dâng người Trăm năm mua một tiếng cười Ngàn năm sau vẫn khóc người đời xưa Nghẹn ngào thành kính câu thơ Nỗi đau xưa đến bây giờ. . . còn đau! Phạm Xuân Trường * TÂM SỰ NÀNG THÚY VÂN Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Ơ kìa! Sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thề thắt một vòng oan khiên Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất, đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu! Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Chị nhiều hờn giận, yêu thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nối khát khao Kiều ơi, em biết khi nào được yêu! Trương Nam Hương Entry filed under Uncategorized. VOH – Nhắc đến Nguyễn Du, người ta sẽ nhớ ngay để một tác phẩm kinh điển để đời của ông, đó là Truyện Kiều. Dưới đây là trọn bộ 3254 câu thơ Kiều mang đầy ý nghĩa và nhiều cung bậc cảm lục Kiều thăm mộ Đạm Tiên Câu 1-244 Kiều và Kim Trọng thề nguyền ước hẹn Câu 245-572 Kiều bán mình chuộc cha Câu 573-804 Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh Câu 805-1056 Kiều mắc lừa Sở Khanh Câu 1057-1274 Kiều gặp Thúc Sinh Câu 1275-1472 Kiều và Hoạn Thư Câu 1473-1704 Kiều gặp Từ Hải Câu 2029-2288 Kiều báo thù Câu 2289-2418 Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn Câu 2419-2738 Kim Trọng đi tìm Kiều Câu 2739-2972 Kiều – Kim Trọng đoàn tụ Câu 2973-3254 Có thể nói, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm nổi tiếng và được xếp vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam. Từ kết cấu câu chuyện cho đến cách tả cảnh, tả người của Nguyễn Du trong tác phẩm đều vô cùng khéo léo, uyển chuyển khiến cho thơ Kiều trở nên nhẹ nhàng, êm ái, thấm thía và dễ đi vào lòng người. Đại thi hào Nguyễn Du Đây là một tác phẩm kể lại của đời của một người con gái mang tên Thúy Kiều, xinh đẹp và tài năng nhưng lại bị cuộc đời vùi dập, nếm trải hết thảy mọi đau khổ, đắng cay, tủi nhục trong suốt 15 năm ròng. May thay, trải qua tất cả mọi sóng gió thì người con gái ấy đã được đoàn tụ với gia đình, sum họp với người xưa. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kỹ hơn về nàng Thúy Kiều tài hoa bạc mệnh cũng như các nhân vật khác như Từ Hải, Kim Trọng, Hoạn Thư… những nhân vật đã tạo một truyện Kiều với những ẩn ý về triết lý nhân sinh sâu sắc, về các mối quan hệ xã hội, về cuộc đời, số phận con người… thông qua 3254 câu thơ Kiều dưới đây 1. Kiều thăm mộ Đạm Tiên Câu 1-244 244 câu thơ Kiều đầu tiên là phần giới thiệu về gia cảnh nhà Thúy Kiều và miêu tả cảnh ba chị em Thúy Kiều đi tảo mộ trong Tết Thanh Minh. Trên đường về, gặp nấm mồ vô chủ bên đường, khi biết đó là mộ của Đạm Tiên - một người con gái tài sắc nhưng phải làm nghề kỹ nữ và mất lúc còn rất trẻ. Thuý Kiều đã động lòng xót thương cho người con gái tài hoa mà ''bạc phận''. Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh. Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung. Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo, mặn mà, So bề tài, sắc, lại là phần hơn. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một, hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Thông minh vốn sẵn tư trời, Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân. Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh. Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Dập dìu tài tử, giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sè sè nấm đất bên đàng, Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Rằng Sao trong tiết thanh minh, Mà đây hương khói vắng tanh thế mà? Vương Quan mới dẫn gần xa Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. Kiếp hồng nhan có mong manh, Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. Có người khách ở viễn phương, Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi. Thuyền tình vừa ghé tới nơi, Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ. Buồng không lạnh ngắt như tờ, Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. Khóc than khôn xiết sự tình, Khéo vô duyên ấy là mình với ta. Đã không duyên trước chăng mà, Thì chi chút ước gọi là duyên sau. Sắm xanh nếp tử xe châu, Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa. Trải bao thỏ lặn ác tà, Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm! Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa. Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Xem thêm Phũ phàng chi bấy hoá công, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha. Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma không chồng. Nào người phượng chạ loan chung, Nào người tích lục tham hồng là ai? Đã không kẻ đoái người hoài, Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. Gọi là gặp gỡ giữa đường, Họa là người dưới suối vàng biết cho. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to, Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra. Một vùng cỏ áy bóng tà, Gió hiu hiu thổi một vài bông lau. Rút trâm sẵn giắt mái đầu, Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần. Lại càng mê mẩn tâm thần Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra. Lại càng ủ dột nét hoa, Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài. Vân rằng Chị cũng nực cười, Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Rằng Hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu? Nỗi niềm tưởng đến mà đau, Thấy người nằm đó biết sau thế nào? Quan rằng Chị nói hay sao, Một lời là một vận vào khó nghe. Ở đây âm khí nặng nề, Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa. Kiều rằng Những đấng tài hoa, Thác là thể phách, còn là tinh anh, Dễ hay tình lại gặp tình, Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ. Một lời nói chửa kịp thưa, Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay. Ào ào đổ lộc rung cây, Ở trong dường có hương bay ít nhiều. Đè chừng ngọn gió lần theo, Dấu giày từng bước in rêu rành rành. Mắt nhìn ai nấy đều kinh, Nàng rằng Này thực tinh thành chẳng xa. Hữu tình ta lại gặp ta, Chớ nề u hiển mới là chị em. Đã lòng hiển hiện cho xem, Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời. Lòng thơ lai láng bồi hồi, Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Dùng dằng nửa ở nửa về, Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần. Trông chừng thấy một văn nhân, Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chân theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu giòn, Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. Nẻo xa mới tỏ mặt người, Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình. Hài văn lần bước dặm xanh, Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. Chàng Vương quen mặt ra chào, Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. Nguyên người quanh quất đâu xa, Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. Nền phú hậu, bậc tài danh, Văn chương nết đất, thông minh tính trời. Phong tư tài mạo tót vời, Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Chung quanh vẫn đất nước nhà, Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân. Vẫn nghe thơm nức hương lân, Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều. Nước non cách mấy buồng thêu, Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng. May thay giải cấu tương phùng, Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa. Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê. Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Bóng tà như giục cơn buồn, Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo. Dưới cầu nước chảy trong veo, Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Kiều từ trở gót trướng hoa, Mặt trời gác núi chiêng đà thu không. Mảnh trăng chênh chếch dòm song, Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân. Hải đường lả ngọn đông lân, Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà. Một mình lặng ngắm bóng nga, Rộn đường gần với nỗi xa bời bời Người mà đến thế thì thôi, Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành, Tựa nương bên triện một mình thiu thiu. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân. Sương in mặt, tuyết pha thân, Sen vàng lãng đãng như gần như xa. Chào mừng đón hỏi dò la Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây? Thưa rằng Thanh khí xưa nay, Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên. Hàn gia ở mé tây thiên, Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu. Mấy lòng hạ cố đến nhau, Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. Vâng trình hội chủ xem tường, Mà sao trong sổ đoạn trường có tên. Âu đành quả kiếp nhân duyên, Cùng người một hội, một thuyền đâu xa! Này mười bài mới mới ra, Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời. Kiều vâng lĩnh ý đề bài, Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. Xem thơ nức nở khen thầm Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường Ví đem vào tập Đoạn Trường Thì treo giải nhất chi nhường cho ai. Thềm hoa khách đã trở hài, Nàng còn cầm lại một hai tự tình. Gió đâu xịch bức mành mành, Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao. Trông theo nào thấy đâu nào Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây. Một mình lưỡng lự canh chầy, Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Hoa trôi bèo dạt đã đành, Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi! Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. Giọng Kiều rền rĩ trướng loan, Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi Cơn cớ gì? Cớ sao trằn trọc canh khuya, Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa? Thưa rằng Chút phận ngây thơ, Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền. Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên, Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao. Đoạn trường là số thế nào, Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia. Cứ trong mộng triệu mà suy, Phận con thôi có ra gì mai sau! Dạy rằng Mộng triệu cớ đâu, Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao. Vâng lời khuyên giải thấp cao, Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương. Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng, Nách tường bông liễu bay ngang trước mành. Hiên tà gác bóng chênh chênh, Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình. Cho hay là thói hữu tình, Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong. 2. Kiều và Kim Trọng thề nguyền ước hẹn Câu 245-572 327 câu thơ Kiều tiếp theo kể lại việc sau khi Thúy Kiều, Thúy Vân gặp Kim Trọng – người bạn đồng môn với Vương Quan em Thúy Kiều thì một mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng bắt đầu chớm nở. Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dồn lại một ngày dài ghê. Mây Tần khóa kín song the, Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao. Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. Buồng văn hơi giá như đồng, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. Mành Tương phất phất gió đàn, Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. Vì chăng duyên nợ ba sinh, Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người, Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. Một vùng cỏ mọc xanh rì, Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu! Gió chiều như gợi cơn sầu, Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang. Thâm nghiêm kín cổng cao tường, Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh. Lơ thơ tơ liễu buông mành, Con oanh học nói trên cành mỉa mai. Mấy lần cửa đóng then cài, Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu? Tần ngần đứng suốt giờ lâu, Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà. Là nhà Ngô Việt thương gia, Buồng không để đó người xa chưa về. Lấy điều du học hỏi thuê, Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang. Có cây, có đá sẵn sàng, Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai. Mừng thầm chốn ấy chữ bài, Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây. Song hồ nửa khép cánh mây, Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông. Tấc gang đồng tỏa nguyên phong, Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra. Nhẫn từ quán khách lân la, Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai. Cách tường phải buổi êm trời, Dưới đào dường có bóng người thướt tha. Buông cầm xốc áo vội ra, Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh. Lần theo tường gấm dạo quanh, Trên đào nhác thấy một cành kim thoa. Giơ tay với lấy về nhà Này trong khuê các đâu mà đến đây? Ngẫm âu người ấy báu này, Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm! Liền tay ngắm nghía biếng nằm, Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai. Xem thêm Tan sương đã thấy bóng người, Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Sinh đà có ý đợi chờ, Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về? Tiếng Kiều nghe lọt bên kia Ơn lòng quân tử sá gì của rơi. Chiếc thoa nào của mấy mươi, Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao! Sinh rằng Lân lý ra vào, Gần đây nào phải người nào xa xôi. Được rày nhờ chút thơm rơi, Kể đà thiểu não lòng người bấy nay! Bấy lâu mới được một ngày, Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là. Vội về thêm lấy của nhà, Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông. Bậc mây rón bước ngọn tường, Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe? Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu. Rằng Từ ngẫu nhĩ gặp nhau. Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn. Xương mai tính đã rũ mòn, Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay! Tháng tròn như gởi cung mây, Trần trần một phận ấp cây đã liều! Tiện đây xin một hai điều, Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng? Ngần ngừ nàng mới thưa rằng Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong, Dù khi lá thắm chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. Nặng lò xót liễu vì hoa, Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa! Sinh rằng Rày gió mai mưa, Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi! Dù chăng xét tấm tình si Thiệt đây mà có ích gì đến ai? Chút chi gắn bó một hai, Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh. Khuôn thiêng dù phụ tấc thành, Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi, Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru! Lặng nghe lời nói như ru, Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng. Rằng Trong buổi mới lạ lùng, Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang! Đã lòng quân tử đa mang, Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung. Được lời như cởi tấm lòng, Giờ kim hoàn với khăn hồng trao tay. Rằng Trăm năm cũng từ đây, Của tin gọi một chút này làm ghi. Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ, Với cành thoa ấy tức thì đổi trao. Một lời vừa gắn tất giao, Mái sau dường có xôn xao tiếng người. Vội vàng lá rụng hoa rơi, Chàng về viện sách nàng dời lầu trang. Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Sông Tương một dải nông sờ, Bên trông đầu nọ bên chờ suối kia. Một tường tuyết trở sương che. Tin xuân đâu dễ đi về cho năng. Lần lần ngày gió đêm trăng, Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua. Ngày vừa sinh nhật ngoại gia, Trên hai đường dưới nữa là hai em. Tưng bừng sắm sửa áo xiêm, Biện dâng một lễ xa đem tấc thành. Nhà lan thanh vắng một mình, Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay. Thời trân thức thức sẵn bày, Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường. Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông Trách lòng hờ hững với lòng, Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu. Những là đắp nhớ đổi sầu, Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm. Nàng rằng Gió bắt mưa cầm, Đã cam tệ với tri âm bấy chầy. Vắng nhà được buổi hôm nay, Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng! Lần theo núi giả đi vòng, Cuối tường dường có nẻo thông mới rào. Xắn tay mở khóa động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai. Mặt nhìn mặt càng thêm tươi, Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên. Sánh vai về chốn thư hiên, Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông. Trên yên bút giá thi đồng, Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên. Phong sương được vẻ thiên nhiên, Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi. Sinh rằng Phác họa vừa rồi, Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa. Tay tiên gió táp mưa sa, Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu. Khen Tài nhả ngọc phun châu, Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này! Kiếp tu xưa ví chưa dày, Phúc nào nhắc được giá này cho ngang! Nàng rằng Trộm liếc dung quang, Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn. Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? Nhớ từ năm hãy thơ ngây, Có người tướng sĩ đoán ngay một lời Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. Trông người lại ngẫm đến ta, Một dầy một mỏng biết là có nên? Sinh rằng Giải cấu là duyên, Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. Ví dù giải kết đến điều, Thì đem vàng đá mà liều với thân! Đủ điều trung khúc ân cần, Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang, Trông ra ác đã ngậm gương non đoài. Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai, Giã chàng nàng mới kíp dời song sa. Đến nhà vừa thấy tin nhà, Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về. Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Nhặt thưa gương giọi đầu cành, Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê. Tiếng sen sẽ động giấc hòe, Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần, Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Nàng rằng Khoảng vắng đêm trường, Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa. Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Vội mừng làm lễ rước vào, Đài sen nối sáp song đào thêm hương. Tiên thề cùng thảo một chương, Tóc mây một món dao vàng chia đôi. Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mặt một lời song song. Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. Chén hà sánh giọng quỳnh tương, Dải là hương lộn bình gương bóng lồng. Sinh rằng Gió mát trăng trong, Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam. Chày sương chưa nện cầu Lam, Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng? Nàng rằng Hồng diệp xích thằng, Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri. Đừng điều nguyệt nọ hoa kia. Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai. Rằng Nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ. Thưa rằng Tiện kỹ sá chi, Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng. Hiên sau treo sẵn cầm trăng, Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày. Nàng rằng Nghề mọn riêng tay, Làm chi cho bận lòng này lắm thân! So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương. Khúc đâu Hán Sở chiến trường, Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Khúc đâu Tư mã Phượng cầu, Nghe ra như oán như sầu phải chăng! Kê Khang này khúc Quảng lăng, Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân. Qua quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia. Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vò chín khúc khi chau đôi mày. Rằng Hay thì thật là hay, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! Lựa chi những bậc tiêu tao, Dột lòng mình cũng nao nao lòng người? Rằng Quen mất nết đi rồi, Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao! Lời vàng âm lĩnh ý cao, Họa dần dần bớt chút nào được không. Hoa hương càng tỏ thức hồng, Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Thưa rằng đừng lấy làm chơi, Dẽ cho thưa hết một lời đã nao! Vẻ chi một đóa yêu đào, Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh. Đã cho vào bậc bố kinh, Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu Ra tuồng trên Bộc trong dâu, Thì con người ấy ai cầu làm chi! Phải điều ăn xổi ở thì, Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày! Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương. Mây mưa đánh đổ đá vàng, Quá chiều nên đã chán chường yến anh. Trong khi chắp cánh liền cành, Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên. Mái tây để lạnh hương nguyền, Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng. Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai? Vội chi liễu ép hoa nài, Còn thân ắt lại đền bồi có khi! Thấy lời đoan chính dễ nghe, Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân. Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân, Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào. Nàng thì vội trở buồng thêu, Sinh thì dạo gót sân đào bước ra. Cửa sài vừa ngỏ then hoa, Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang. Đem tin thúc phụ từ đường, Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Liêu dương cách trở sơn khê, Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang. Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. Gót đầu mọi nỗi đinh ninh, Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi Sự đâu chưa kịp đôi hồi, Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ, Trăng thề còn đó trơ trơ, Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Ngoài nghìn dặm chốc ba đông, Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy! Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. Tai nghe ruột rối bời bời, Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau Ông tơ ghét bỏ chi nhau, Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi! Cùng nhau trót đã nặng lời, Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ! Quản bao tháng đợi năm chờ, Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm. Đã nguyền hai chữ đồng tâm, Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Còn non còn nước còn dài, Còn về còn nhớ đến người hôm nay! Dùng dằng chưa nỡ rời tay, Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà. Ngại ngùng một bước một xa, Một lời trân trọng châu sa mấy hàng. Buộc yên quảy gánh vội vàng, Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai. Buồn trông phong cảnh quê người, Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa. Não người cữ gió tuần mưa, Một ngày nặng gánh tương tư một ngày. Nàng còn đứng tựa hiên tây, Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ. Trông chừng khói ngất song thưa, Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng. 3. Kiều bán mình chuộc cha Câu 573-804 Sau khi trao tín vật đính ước, thì 231 câu thơ tiếp theo trong Truyện Kiều kể về việc gia đình Thúy Kiều gặp oan và Kiều phải bán mình để chuộc cha. Tần ngần dạo gót lầu trang, Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về, Hàn huyên chưa kịp giãi dề, Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao. Người nách thước, kẻ tay đao; Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. Già giang một lão một trai, Một dây vô lại buộc hai thâm tình. Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung dệt, tan tành gói may. Đồ tế nhuyễn, của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. Điều đâu bay buộc ai làm? Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng? Hỏi ra sau mới biết rằng Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ. Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ, Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây. Hạ từ van lạy suốt ngày, Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn. Rường cao rút ngược dây oan, Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. Mặt trông đau đớn rụng rời, Oan này còn một kêu trời, nhưng xa. Một ngày lạ thói sai nha, Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. Sao cho cốt nhục vẹn tuyền, Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao? Duyên hội ngộ, đức cù lao, Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn? Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Quyết tình nàng mới hạ tình Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha! Họ Chung có kẻ lại già, Cũng trong nha dịch lại là từ tâm. Thấy nàng hiếu trọng tình thâm, Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay. Tính bài lót đó luồn đây, Có ba trăm lạng việc này mới xuôi. Hãy về tạm phó giam ngoài, Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày. Thương tình con trẻ thơ ngây, Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ! Đau lòng tử biệt sinh ly, Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên! Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. Xem thêm Sự lòng ngỏ với băng nhân, Tin sương đồn đại xa gần xôn xao. Gần miền có một mụ nào, Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh. Hỏi tên rằng Mã Giám sinh. Hỏi quê, rằng Huyện Lâm Thanh cũng gần. Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Trước thầy sau tớ lao xao Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra. Nỗi mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng! Ngại ngùng giợn gió e sương, Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. Mối càng vén tóc bắt tay, Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ. Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu. Rằng Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường? Mối rằng đáng giá nghìn vàng, Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài. Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Một lời thuyền đã êm dằm Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi. Định ngày nạp thái vu qui, Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong! Một lời cậy với Chung công, Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà. Thương tình con trẻ cha già, Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu Nuôi con những ước về sau, Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. Trời làm chi cực bấy trời, Này ai vu thác cho người hợp tan! Búa rìu bao quản thân tàn, Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già. Một lần sau trước cũng là, Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau! Theo lời càng chảy dòng châu, Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi. Vội vàng kẻ giữ người coi, Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can Vẻ chi một mảnh hồng nhan, Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành. Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, Lại thua ả Lý bán mình hay sao? Cỗi xuân tuổi hạc càng cao, Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành. Lòng tơ dù chẳng dứt tình, Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non. Thà rằng liều một thân con, Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây. Phận sao đành vậy cũng vầy, Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh. Cũng đừng tính quẩn lo quanh, Tan nhà là một thiệt mình là hai. Phải lời ông cũng êm tai, Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang. Mái ngoài họ Mã vừa sang, Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao. Trăng già độc địa làm sao? Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên. Trong tay đã sẵn đồng tiền, Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì! Họ Chung ra sức giúp vì, Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong. Việc nhà đã tạm thong dong, Tinh kỳ giục giã đã mong độ về. Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu. Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời! Công trình kể biết mấy mươi. Vì ta khăng khít, cho người dở dang. Thề hoa chưa ráo chén vàng, Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa. Trời Liêu non nước bao xa. Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi. Biết bao duyên nợ thề bồi. Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì. Tái sinh chưa dứt hương thề. Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan. Nỗi riêng riêng những bàng hoàng, Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn. Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân, Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han Cơ trời dâu bể đa đoan, Một nhà để chị riêng oan một mình, Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh? Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây? Rằng Lòng đương thổn thức đầy, Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong. Hở môi ra cũng thẹn thùng, Để lòng thì phụ tấm lòng với ai. Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai! Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Chiếc thoa với bức tờ mây, Duyên này thì giữ vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mai sao dầu có bao giờ. Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai; Dạ đài cách mặt khuất lời, Rẩy xin chén nước cho người thác oan. Bây giờ trâm gẫy bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Trăm nghìn gửi lại tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Cạn lời hồn ngất máu say, Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng. Xuân Huyên chợt tỉnh giấc nồng, Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài. Kẻ thang người thuốc bời bời, Mới dằn cơn vựng, chưa phai giọt hồng. Hỏi Sao ra sự lạ lùng? Kiều càng nức nở mở không ra lời. Nỗi nàng Vân mới rỉ tai, Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây.. Này cha làm lỗi duyên mày, Thôi thì nỗi ấy sau này đã em. Vì ai rụng cải rơi kim, Để con bèo nổi mây chìm vì ai. Lời con dặn lại một hai, Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng. Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng, Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi. Sá chi thân phận tôi đòi, Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu. Xiết bao kể nỗi thảm sầu! Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, Quản huyền đâu đã giục người sinh ly. Đau lòng kẻ ở người đi, Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm. Trời hôm mây kéo tối rầm, Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương. Rước nàng về đến trú phường, Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong. Ngập ngừng thẹn lục e hồng, Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen. Phẩm tiên rơi đến tay hèn, Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai Biết thân đến bước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. Vì ai ngăn đón gió đông, Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi. Trùng phùng dầu họa có khi, Thân này thôi có còn gì mà mong. Đã sinh ra số long đong, Còn mang lấy kiếp má hồng được sao? Trên yên sẵn có con dao, Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn Phòng khi nước đã đến chân, Dao này thì liệu với thân sau này. Đêm thu một khắc một chầy, Bâng khuâng như tỉnh như say một mình. 4. Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh Câu 805-1056 251 câu thơ Kiều tiếp theo nối tiếp câu chuyện sau khi bán mình chuộc cha, Kiều gặp Mã Giám sinh và bị lừa bán vào lầu xanh. Tại đây, nàng bị Tú Bà ép tiếp khách, nhưng nàng chống cự. Sau đó nàng được đưa đến ở Lầu Ngưng Bích. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh, Vẫn là một đứa phong tình đã quen. Quá chơi lại gặp hồi đen, Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. Lầu xanh có mụ Tú Bà, Làng chơi đã trở về già hết duyên. Tình cờ chẳng hẹn mà nên, Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường. Chung lưng mở một ngôi hàng, Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề. Dạo tìm khắp chợ thì quê, Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi. Rủi may âu cũng tại trời, Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên. Xót nàng chút phận thuyền quyên, Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn. Mẹo lừa đã mắc vào khuôn, Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày. Mừng thầm Cờ đã đến tay! Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng. Đã nên quốc sắc thiên hương, Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. Về đây nước trước bẻ hoa, Vương tôn quý khách ắt là đua nhau. Hẳn ba trăm lạng kém đâu, Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời, Miếng ngon kề đến tận nơi, Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham. Đào tiên đã bén tay phàm, Thì vin cành quít cho cam sự đời! Dưới trần mấy mặt làng chơi, Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. Nước vỏ lựu máu mào gà, Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên. Mập mờ đánh lận con đen, Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? Mụ già hoặc có điều gì, Liều công mất một buổi quỳ mà thôi. Vả đây đường xá xa xôi, Mà ta bất động nữa người sinh nghi. Tiếc thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về. Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương. Đêm xuân một giấc mơ màng, Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. Giọt riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình Tuồng chi là giống hôi tanh, Thân nghìn vàng để ô danh má hồng. Thôi còn chi nữa mà mong? Đời người thôi thế là xong một đời. Giận duyên tủi phận bời bời, Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh. Nghĩ đi nghĩ lại một mình Một mình thì chớ hai tình thì sao? Sao dầu sinh sự thế nào, Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân. Nỗi mình âu cũng giãn dần, Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi. Những là đo đắn ngược xuôi, Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường. Xem thêm Lầu mai vừa rúc còi sương, Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi. Đoạn trường thay lúc phân kỳ! Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh. Bề ngoài mười dặm trường đình, Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo. Ngoài thì chủ khách dập dìu, Một nhà huyên với một Kiều ở trong. Nhìn càng lã chã giọt hồng, Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao Hổ sinh ra phận thơ đào, Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong? Lỡ làng nước đục bụi trong, Trăm năm để một tấm lòng từ đây. Xem gương trong bấy nhiêu ngày, Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già! Khi về bỏ vắng trong nhà, Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng. Khi ăn khi nói lỡ làng, Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh. Khác màu kẻ quý người thanh, Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn. Thôi con còn nói chi con? Sống nhờ đất khách thác chôn quê người! Vương bà nghe bấy nhiêu lời, Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên. Vài tuần chưa cạn chén khuyên. Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe. Xót con lòng nặng trì trì, Trước yên ông đã nằn nì thấp cao Chút thân yếu liễu tơ đào, Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi. Từ đây góc bể bên trời, Nắng mưa thui thủi quê người một thân. Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, Tuyết sương che chở cho thân cát đằng. Cạn lời khách mới thưa rằng Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao. Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỉ thần! Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay. Trông vời gạt lệ chia tay, Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm. Nàng thì dặm khách xa xăm, Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây. Vi lô san sát hơi may, Một trời thu để riêng ai một người. Dặm khuya ngất tạnh mù khơi, Thấy trăng mà thẹn những lời non sông. Rừng thu từng biếc xen hồng, Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. Những là lạ nước lạ non, Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi. Xe châu dừng bánh cửa ngoài, Rèm trong đã thấy một người bước ra. Thoắt trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao! Trước xe lơi lả han chào, Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi. Bên thì mấy ả mày ngài, Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi. Giữa thì hương án hẳn hoi, Trên treo một tượng trắng đôi lông mày. Lầu xanh quen lối xưa nay, Nghề này thì lấy ông này tiên sư, Hương hôm hoa sớm phụng thờ. Cô nào xấu vía có thưa mối hàng, Cởi xiêm lột áo sỗ sàng, Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm. Đổi hoa lót xuống chiếu nằm, Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi! Kiều còn ngơ ngẩn biết gì, Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay Cửa hàng buôn bán cho may, Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu. Muôn nghìn người thấy cũng yêu, Xôn xao oanh yến rập rìu trúc mai. Tin nhạn vẩn lá thư bài, Đưa người cửa trước rước người cửa sau. Lạ tai nghe chửa biết đâu, Xem tình ra cũng những màu dở dang. Lễ xong hương hỏa gia đường, Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay. Dạy rằng Con lạy mẹ đây, Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia. Nàng rằng Phải bước lưu ly, Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh. Điều đâu lấy yến làm oanh, Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì? Đủ điều nạp thái vu qui, Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi. Giờ ra thay mặt đổi ngôi, Dám xin gửi lại một lời cho minh. Mụ nghe nàng nói hay tình, Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên Này này sự đã quả nhiên, Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi. Bảo rằng đi dạo lấy người, Đem về rước khách kiếm lời mà ăn. Tuồng vô nghĩa ở bất nhân, Buồn mình trước đã tần mần thử chơi. Màu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma! Con kia đã bán cho ta, Nhập ra phải cứ phép nhà tao đây. Lão kia có giở bài bây, Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe. Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao? Phải làm cho biết phép tao! Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay. Nàng rằng Trời thẳm đất dày! Thân này đã bỏ những ngày ra đi. Thôi thì thôi có tiếc gì! Sẵn dao tay áo tức thì giở ra. Sợ gan nát ngọc liều hoa! Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay. Thương ôi tài sắc bậc này, Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần. Nỗi oan vỡ lở xa gần, Trong nhà người chật một lần như nêm. Nàng thì bằn bặt giấc tiên, Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay. Vực nàng vào chốn hiên tây, Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang. Nào hay chưa hết trần duyên, Trong mê dường đã đứng bên một nàng. Rỉ rằng Nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao? Số còn nặng nợ má đào, Người dầu muốn quyết trời nào đã cho. Hãy xin hết kiếp liễu bồ, Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau. Thuốc thang suốt một ngày thâu, Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan. Tú bà chực sẵn bên màn, Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần Một người dễ có mấy thân! Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài. Cũng là lỡ một lầm hai, Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây! Lỡ chưn trót đã vào đây, Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non. Người còn thì của hãy còn, Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà. Làm chi tội báo oán gia, Thiệt mình mà hại đến ta hay gì? Kề tai mấy mỗi nằn nì, Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi. Vả suy thần mộng mấy lời, Túc nhân âu cũng có trời ở trong. Kiếp này nợ trả chưa xong, Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau! Lặng nghe, thấm thía gót đầu, Thưa rằng Ai có muốn đâu thế này? Được như lời, thế là may, Hẳn rằng mai có như rày cho chăng! Sợ khi ong bướm đãi đằng, Đến điều sống đục, sao bằng thác trong! Mụ rằng Con hãy thong dong, Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi! Mai sau ở chẳng như lời, Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi. Thấy lời quyết đoán hẳn hoi, Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần. Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm? Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác, biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị Chung quanh những nước non người, Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu. 5. Kiều mắc lừa Sở Khanh Câu 1057-1274 Ở 217 câu thơ Kiều tiếp theo trong tập thơ Truyện Kiều - Nguyễn Du là câu chuyện kể về Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích gặp được Sở Khanh. Vì ngây thơ nên Thúy Kiều tiếp tục bị tên Sở Khanh lừa đi “tiếp khách”. Ngậm ngùi rủ bước rèm châu, Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần. Một chàng vừa trạc thanh xuân, Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng. Nghĩ rằng cũng mạch thư hương, Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh. Bóng Nga thấp thoáng dưới mành, Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai. Than ôi! sắc nước hương trời, Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây? Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa? Tức gan riêng giận trời già, Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng? Thuyền quyên ví biết anh hùng, Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi! Song thu đã khép cánh ngoài, Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình, Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ. Những là lần lữa nắng mưa, Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi? Đánh liều nhắn một hai lời, Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân. Mảnh tiên kể hết xa gần, Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài. Tan sương vừa rạng ngày mai, Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang. Trời tây lãng đãng bóng vàng, Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi. Mở xem một bức tiên mai, Rành rành tích việt có hai chữ đề. Lấy trong ý tứ mà suy Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng? Chim hôm thoi thót về rừng, Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành. Tường đông lay động bóng cành, Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào. Sượng sùng đánh dạn ra chào, Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần. Rằng Tôi bèo bọt chút thân, Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh. Dám nhờ cốt nhục tử sinh, Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau! Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng! Nàng đà biết đến ta chăng, Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi! Nàng rằng Muôn sự ơn người, Thế nào xin quyết một bài cho xong. Rằng Ta có ngựa truy phong, Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi. Thừa cơ lẻn bước ra đi, Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn. Dù khi gió kép, mưa đơn, Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì! Nghe lời nàng đã sinh nghi, Song đà quá đỗi, quản gì được thân. Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu! Xem thêm Cùng nhau lẻn bước xuống lầu, Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn. Đêm thâu khắc lậu canh tàn, Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. Lối mòn cỏ nhợt mù sương, Lòng quê đi một bước đường, một đau. Tiếng gà xao xác gáy mau, Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng. Nàng càng thổn thức gan vàng, Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào! Một mình khôn biết làm sao, Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng. Hóa nhi thật có nỡ lòng, Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau! Một đoàn đổ đến trước sau, Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời. Tú bà tốc thẳng đến nơi, Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà. Hung hăng chẳng nói chẳng tra, Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời. Thịt da ai cũng là người, Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau. Hết lời thú phục, khẩn cầu, Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa. Rằng Tôi chút phận đàn bà, Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây. Bây giờ sống chết ở tay, Thân này đã đến thế này thì thôi! Nhưng tôi có sá chi tôi, Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu? Thân lươn bao quản lấm đầu, Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa! Được lời mụ mới tùy cơ, Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu. Bày vai có ả Mã Kiều, Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan. Mụ càng kể nhặt, kể khoan, Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha. Vực nàng vào nghỉ trong nhà, Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời Thôi đà mắc lận thì thôi! Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh? Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh, Một tay chôn biết mấy cành phù dung! Đà đao lập sẵn chước dùng, Lạ gì một cốt một đồng xưa nay! Có ba mươi lạng trao tay, Không dưng chi có chuyện này, trò kia! Rồi ra trở mặt tức thì, Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời! Nàng rằng Thề thốt nặng lời, Có đâu mà lại ra người hiểm sâu! Còn đương suy trước, nghĩ sau, Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào. Sở Khanh lên tiếng rêu rao Rằng nghe mới có con nào ở đây. Phao cho quyến gió rủ mây, Hãy xem có biết mặt này là ai Nàng rằng Thôi thế thì thôi! Rằng không, thì cũng vâng lời là không! Sở Khanh quát mắng đùng đùng, Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay, Nàng rằng Trời nhé có hay! Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai? Đem người giẩy xuống giếng khơi, Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay! Còn tiên tích việt ở tay, Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai? Lời ngay, đông mặt trong ngoài, Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương! Phụ tình án đã rõ ràng, Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui. Buồng riêng, riêng những sụt sùi Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân. Tiếc thay trong giá trắng ngần, Đến phong trần, cũng phong trần như ai! Tẻ vui cũng một kiếp người, Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru! Kiếp xưa đã vụng đường tu, Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi! Dù sao bình đã vỡ rồi, Lấy thân mà trả nợ đời cho xong! Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong, Tú bà ghé lại thong dong dặn dò Nghề chơi cũng lắm công phu, Làng chơi ta phải biết cho đủ điu. Nàng rằng Mưa gió dập dìu, Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi! Mụ rằng Ai cũng như ai, Người ta ai mất tiền hoài đến đây? Ở trong còn lắm điều hay, Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. Này con thuộc lấy nằm lòng, Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. Chơi cho liễu chán, hoa chê, Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời. Khi khóe hạnh, khi nét ngài, Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. Đều là nghề nghiệp trong nhà, Đủ ngần ấy nết, mới là người soi. Gót đầu vâng dạy mấy lời, Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng. Những nghe nói, đã thẹn thùng, Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe! Xót mình cửa các, buồng khuê, Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay! Khéo là mặt dạn, mày dày, Kiếp người đã đến thế này thì thôi! Thương thay thân phận lạc loài, Dẫu sao cũng ở tay người biết sao? Lầu xanh, mới rủ trướng đào, Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người. Biết bao bướm lả, ong lơi, Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm. Dập dìu lá gió, cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân? Mặc người mưa Sở, mây Tần, Những mình nào biết có xuân là gì! Đôi phen gió tựa, hoa kề, Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! Đòi phen nét vẽ, câu thơ, Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa, Vui là vui gượng kẻo mà, Ai tri âm đó, mặn mà với ai? Thờ ơ gió trúc, mưa mai, Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân. Ôm lòng đòi đoạn xa gần, Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau! Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Một ngày một ngả bóng dâu tà tà. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Sân hòe đôi chút thơ ngây Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình? Nhớ lời nguyện ước ba sinh, Xa xôi ai có thấu tình chăng ai? Khi về hỏi liễu Chương đài, Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Tình sâu mong trả nghĩa dày, Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? Mối tình đòi đoạn vò tơ, Giấc hương quan luống lần mơ canh dài. Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng. Lần lần thỏ bạc ác vàng, Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn! Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân! Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi! 6. Kiều gặp Thúc Sinh Câu 1275-1472 197 câu thơ này này kể về việc Thúy Kiều gặp Thúc Sinh – một người đàn ông đã có vợ nhưng lại có thói phong lưu đa tình. Thúc Sinh chuộc thân cho Kiều và đón nàng về làm vợ lẽ, thế nhưng hạnh phúc và yên bình chưa được bao lâu, Kiều lại gặp phải sóng gió vì Hoạn Thư, người vợ cả của Thúc Sinh. Khách du bỗng có một người, Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương. Vốn người huyện Tích châu Thường, Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri. Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. Trướng tô giáp mặt hoa đào, Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa? Hải đường mơn mởn cành tơ, Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng. Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng, Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng? Lạ gì thanh khí lẽ hằng, Một dây một buộc ai giằng cho ra. Sớm đào tối mận lân la, Trước còn trăng gió sau ra đá vàng. Dịp đâu may mắn lạ dường, Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê. Sinh càng một tỉnh mười mê, Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân. Khi gió gác khi trăng sân, Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ. Khi hương sớm khi trà trưa, Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn. Miệt mài trong cuộc truy hoan, Càng quen thuộc nết càng dan díu tình. Lạ cho cái sóng khuynh thành, Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi. Thúc sinh quen thói bốc rời, Trăm nghìn đổ một trận cười như không. Mụ càng tô lục chuốt hồng, Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê. Xem thêm Dưới trăng quyên đã gọi hè, Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. Buồng the phải buổi thong dong, Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Rõ màu trong ngọc trắng ngà! Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Sinh càng tỏ nét càng khen, Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường. Nàng rằng Vâng biết ý chàng. Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu. Hay hèn lẽ cũng nối điêu, Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang. Lòng còn gửi áng mây Vàng. Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay. Rằng Sao nói lạ lùng thay! Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra? Nàng càng ủ đột thu ba, Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh Thiếp như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm lượn vành mà chơi. Chúa xuân đành đã có nơi, Vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi. Sinh rằng Từ thuở tương tri, Tấm riêng riêng những nặng vì nước non. Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông. Nàng rằng Muôn đội ơn lòng. Chút e bên thú bên tòng dễ đâu. Bình Khang nấn ná bấy lâu, Yêu hoa yêu được một màu điểm trang. Rồi ra lạt phấn phai hương, Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng? Vả trong thềm quế cung trăng, Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong. Bấy lâu khăng khít dải đồng, Thêm người người cũng chia lòng riêng tây. Vẻ chi chút phận bèo mây, Làm cho bể ái khi đầy khi vơi. Trăm điều ngang ngửa vì tôi, Thân sau ai chịu tội trời ấy cho? Như chàng có vững tay co, Mười phần cũng đắp điếm cho một vài. Thế trong dầu lớn hơn ngoài, Trước hàm sư tử gửi người đằng la. Cúi đầu luồn xuống mái nhà, Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng. Ở trên còn có nhà thông, Lượng trên trông xuống biết lòng có thương? Sá chi liễu ngõ hoa tường? Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh. Lại càng dơ dáng dại hình, Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng. Thương sao cho vẹn thì thương. Tính sao cho vẹn mọi đường xin vâng. Sinh rằng Hay nói đè chừng! Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao? Đường xa chớ ngại Ngô Lào, Trăm điều hãy cứ trông vào một ta. Đã gần chi có điều xa? Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều. Cùng nhau căn vặn đến điều, Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời. Nỉ non đêm ngắn tình dài, Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương. Mượn điều trúc viện thừa lương, Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi. Chiến hòa sắp sẵn hai bài, Cậy tay thầy thợ mượn người dò la. Bắn tin đến mặt Tú bà, Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao. Rõ ràng của dẫn tay trao, Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công. Công tư đôi lẽ đều xong, Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai. Một nhà sum họp trúc mai, Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông. Hương càng đượm lửa càng nồng, Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen. Nửa năm hơi tiếng vừa quen, Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. Giậu thu vừa nảy giò sương, Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi. Phong lôi nổi trận bời bời, Nặng lòng e ấp tính bài phân chia. Quyết ngay biện bạch một bề, Dạy cho má phấn lại về lầu xanh. Thấy lời nghiêm huấn rành rành, Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu. Rằng Con biết tội đã nhiều, Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam. Trót vì tay đã nhúng chàm, Dại rồi còn biết khôn làm sao đây. Cùng nhau vả tiếng một ngày, Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành. Lượng trên quyết chẳng thương tình, Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi. Thấy lời sắt đá tri tri, Sốt gan ông mới cáo quì cửa công. Đất bằng nổi sóng đùng đùng, Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra. Cùng nhau theo gót sai nha, Song song vào trước sân hoa lạy quì. Trông lên mặt sắt đen sì, Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời Gã kia dại nết chơi bời, Mà con người thế là người đong đưa. Tuồng chi hoa thải hương thừa, Mượn màu son phấn đánh lừa con đen. Suy trong tình trạng nguyên đơn, Bề nào thì cũng chưa yên bề nào. Phép công chiếu án luận vào. Có hai đường ấy muốn sao mặc mình. Một là cứ phép gia hình, Một là lại cứ lầu xanh phó về. Nàng rằng đã quyết một bề! Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần. Đục trong thân cũng là thân. Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình! Dạy rằng Cứ phép gia hình! Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. Phận đành chi dám kêu oan, Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày. Một sân lầm cát đã đầy, Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương. Nghĩ tình chàng Thúc mà thương, Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa. Khóc rằng Oan khốc vì ta! Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau. Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu. Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai. Phủ đường nghe thoảng vào tai, Động lòng lại gạn đến lời riêng tây. Sụt sùi chàng mới thưa ngay, Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân Nàng đà tính hết xa gần, Từ xưa nàng đã biết thân có rày. Tại tôi hứng lấy một tay, Để nàng cho đến nỗi này vì tôi. Nghe lời nói cũng thương lời, Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi. Rằng Như hẳn có thế thì Trăng hoa song cũng thị phi biết điều. Sinh rằng Chút phận bọt bèo, Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên. Cười rằng đã thế thì nên! Mộc già hãy thử một thiên trình nghề. Nàng vâng cất bút tay đề, Tiên hoa trình trước án phê xem tường. Khen rằng Giá đáng Thịnh đường! Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân! Thật là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn? Thôi đừng rước dữ cưu hờn, Làm chi lỡ nhịp cho đòn ngang cung. Đã đưa đến trước cửa công, Ngoài thì là lý song trong là tình. Dâu con trong đạo gia đình, Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong. Kíp truyền sắm sửa lễ công, Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao. Bày hàng cổ xúy xôn xao, Song song đưa tới trướng đào sánh đôi. Thương vì hạnh trọng vì tài, Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba. Huệ lan sực nức một nhà, Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa. 7. Kiều và Hoạn Thư Câu 1473-1704 Nội dung của 231 câu thơ Kiều này nói về việc Hoạn Thư sau khi biết chồng có vợ lẽ đã ngấm ngầm sai người bắt cóc Thuý Kiều về làm thị tì, rồi bắt Kiều hầu hạ hai vợ chồng trong tiệc rượu hàn huyên. Sau nhiều lần bị đánh đập một cách tàn nhẫn, Kiều bỏ trốn đến nương nhờ cửa Phật, nhưng một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh. Mảng vui rượu sớm cờ trưa, Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh, E tình nàng mới bày tình riêng chung Phận bồ từ vẹn chữ tòng, Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên. Tin nhà ngày một vắng tin, Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang. Nghĩ ra thật cũng nên đường, Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta? Trộm nghe kẻ lớn trong nhà, Ở vào khuôn phép nói ra mối đường. E thay những dạ phi thường, Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông! Mà ta suốt một năm ròng, Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao, Hoặc là trong có làm sao chăng là? Xin chàng kíp liệu lại nhà, Trước người đẹp ý sau ta biết tình. Đêm ngày giữ mức giấu quanh, Rày lần mai lữa như hình chưa thông. Nghe lời khuyên nhủ thong dong, Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang. Rạng ra gửi đến xuân đường, Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia. Tiễn đưa một chén quan hà, Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình. Sông Tần một dải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan. Cầm tay dài ngắn thở than, Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời. Nàng rằng Non nước xa khơi, Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm. Dễ lòa yếm thắm trôn kim, Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng! Đôi ta chút nghĩa đèo bòng, Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh. Dù khi sóng gió bất tình, Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi. Hơn điều giấu ngược giấu xuôi. Lại mang những việc tày trời đến sau. Thương nhau xin nhớ lời nhau, Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy. Chén đưa nhớ bữa hôm nay, Chén mừng xin đợi ngày này năm sau! Người lên ngựa kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Dặm hồng bụi cuốn chinh an, Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh. Người về chiếc bóng năm canh, Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi. Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. Xem thêm Kể chi những nỗi dọc đường, Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà Vốn dòng họ Hoạn danh gia, Con quan Lại Bộ tên là Hoạn Thư. Duyên đằng thuận nẻo gió đưa, Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày. Ở ăn thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già. Từ nghe vườn mới thêm hoa, Miệng người đã lắm tin nhà thì không. Lửa tâm càng dập càng nồng, Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa Ví bằng thú thật cùng ta, Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên. Dại chi chẳng giữ lấy nền, Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình? Lại còn bưng bít giấu quanh, Làm chi những thói trẻ ranh nực cười! Tính rằng cách mặt khuất lời, Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho! Lo gì việc ấy mà lo, Kiến trong miệng chén có bò đi đâu? Làm cho nhìn chẳng được nhau, Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên! Làm cho trông thấy nhãn tiền, Cho người thăm ván bán thuyền biết tay. Nỗi lòng kín chẳng ai hay, Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài. Tuần sau bỗng thấy hai người, Mách tin ý cũng liệu bài tâng công. Tiểu thư nổi giận đùng đùng Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi! Chồng tao nào phải như ai, Điều này hẳn miệng những người thị phi! Vội vàng xuống lệnh ra uy, Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng. Trong ngoài kín mít như bưng. Nào ai còn dám nói năng một lời! Buồng đào khuya sớm thảnh thơi, Ra vào một mực nói cười như không. Đêm ngày lòng những dặn lòng, Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên. Lời tan hợp nỗi hàn huyên, Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng. Tẩy trần vui chén thong dong, Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra. Chàng về xem ý tứ nhà, Sự mình cũng rắp lân la giãi bày. Mấy phen cười nói tỉnh say, Tóc tơ bất động mảy may sự tình. Nghĩ đà bưng kín miệng bình, Nào ai có khảo mà mình đã xưng? Những là e ấp dùng dằng, Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi. Có khi vui chuyện mua cười, Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu. Rằng Trong ngọc đá vàng thau, Mười phần ta đã tin nhau cả mười. Khen cho những chuyện dông dài, Bướm ong lại đặt những lời nọ kia. Thiếp dù bụng chẳng hay suy, Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười! Thấy lời thủng thỉnh như chơi, Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn. Những là cười phấn cợt son, Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai. Thú quê thuần hức bén mùi, Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ, Một màu quan tái mấy mùa gió trăng. Tình riêng chưa dám rỉ răng, Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua Cách năm mây bạc xa xa, Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn. Được lời như cởi tấc son, Vó câu chẳng ruổi nước non quê người. Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng. Roi câu vừa gióng dặm trường, Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh. Thưa nhà huyên hết mọi tình, Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen. Nghĩ rằng Ngứa ghẻ hờn ghen, Xấu chàng mà có ai khen chi mình! Vậy nên ngảnh mặt làm thinh, Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày. Lâm Tri đường bộ tháng chầy, Mà đường hải đạo sang ngay thì gần. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, Hãy đem dây xích buộc chân nàng về. Làm cho cho mệt cho mê, Làm cho đau đớn ê chề cho coi! Trước cho bõ ghét những người, Sau cho để một trò cười về sau. Phu nhân khen chước rất mầu, Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay. Sửa sang buồm gió lèo mây, Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang. Dặn dò hết các mọi đường, Thuận phong một lá vượt sang bến Tề. Nàng từ chiếc bóng song the, Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu. Bóng đâu đã xế ngang đầu, Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi. Tóc thề đã chấm ngang vai, Nào lời non nước nào lời sắt son. Sắn bìm chút phận cỏn con, Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? Thân sao nhiều nỗi bất bằng, Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao! Đêm thu gió lọt song đào, Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời. Nén hương đến trước Phật đài, Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân. Dưới hoa dậy lũ ác nhân, Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra. Đầy sân gươm tuốt sáng lòa, Thất kinh nàng chửa biết là làm sao. Thuốc mê đâu đã rưới vào, Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì. Vực ngay lên ngựa tức thì, Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong. Sẵn thây vô chủ bên sông, Đem vào để đó lộn sòng ai hay? Tôi đòi phách lạc hồn bay, Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình. Thúc ông nhà cũng gần quanh, Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi, Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao. Gió cao ngọn lửa càng cao, Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu! Hớt hơ hớt hải nhìn nhau, Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng. Chạy vào chốn cũ phòng hương, Trong tro thấy một đống xương cháy tàn. Tình ngay ai biết mưu gian, Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai! Thúc ông sùi sụt ngắn dài, Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na. Di hài nhặt gói về nhà, Nào là khâm liệm nào là tang trai. Lễ thường đã đủ một hai, Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ. Bước vào chốn cũ lầu thơ, Tro than một đống nắng mưa bốn tường. Sang nhà cha tới trung đường, Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên. Hỡi ôi nói hết sự duyên, Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan! Gieo mình vật vã khóc than Con người thế ấy thác oan thế này. Chắc rằng mai trúc lại vầy, Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau! Thương càng nghĩ nghĩ càng đau, Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây. Gần miền nghe có một thầy, Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền. Trên tam đảo dưới cửu tuyền, Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng. Sắm sanh lễ vật rước sang, Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han. Đạo nhân phục trước tĩnh đàn, Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương. Trở về minh bạch nói tường Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra. Người này nặng kiếp oan gia, Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho! Mệnh cung đang mắc nạn to, Một năm nữa mới thăm dò được tin. Hai bên giáp mặt chiền chiền, Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay! Điều đâu nói lạ dường này, Sự nàng đã thế lời thầy dám tin! Chẳng qua đồng cốt quàng xiên, Người đâu mà lại thấy trên cõi trần? Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân, Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên. Nước trôi hoa rụng đã yên, Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian. Khuyển ưng đã đắt mưu gian, Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền. Buồm cao lèo thẳng cánh suyền, Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang. Dỡ đò lên trước sảnh đường, Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công. Vực nàng tạm xuống môn phòng, Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai, Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây? Bàng hoàng giở tỉnh giở say, Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu. A hoàn trên dưới giục mau, Hãi hùng nàng mới theo sau một người. Ngước trông tòa rộng dãy dài, Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên. Ban ngày sáp thắp hai bên, Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra, Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa. Bất tình nổi trận mây mưa, Mắng rằng Những giống bơ thờ quen thân! Con này chẳng phải thiện nhân, Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng. Ra tuồng mèo mả gà đồng, Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào. Đã đem mình bán cửa tao, Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này. Nào là gia pháp nọ bay! Hãy cho ba chục biết tay một lần. A hoàn trên dưới dạ ran, Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào. Trúc côn ra sức đập vào, Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh. Xót thay đào lý một cành, Một phen mưa gió tan tành một phen. Hoa nô truyền dạy đổi tên, Buồng the dạy ép vào phiên thị tì. Ra vào theo lũ thanh y, Dãi dầu tóc rối da chì quản bao. Quản gia có một mụ nào, Thấy người thấy nết ra vào mà thương. Khi chè chén khi thuốc thang, Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh. Dạy rằng May rủi đã đành, Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay. Cũng là oan nghiệp chi đây, Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng. Ở đây tai vách mạch rừng, Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi. Kẻo khi sấm sét bất kỳ, Con ong cái kiến kêu gì được oan? Nàng càng giọt ngọc như chan, Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây Phong trần kiếp chịu đã đầy, Lầm than lại có thứ này bằng hai. Phận sao bạc chẳng vừa thôi, Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan. Đã đành túc trái tiền oan, Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi. Những là nương náu qua thì, Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia. Mẹ con trò chuyện lân la, Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời Tiểu thư dưới trướng thiếu người, Cho về bên ấy theo đòi lầu trang. Lãnh lời nàng mới theo sang, Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu. Sớm khuya khăn mắt lược đầu, Phận con hầu giữ con hầu dám sai. Phải đêm êm ả chiều trời, Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày. Lĩnh lời nàng mới lựa dây, Nỉ non thánh thót dễ say lòng người. Tiểu thư xem cũng thương tài, Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân. Cửa người đày đọa chút thân, Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng, Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau. Bốn phương mây trắng một màu, Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Lần lần tháng trọn ngày qua, Nỗi gần nào biết đường xa thế này. Lâm Tri từ thuở uyên bay, Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân. Mày ai trăng mới in ngần, Phần thừa hương cũ bội phần xót xa. Sen tàn cúc lại nở hoa, Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân. Tìm đâu cho thấy cố nhân? Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương. Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương, Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê. Tiểu thư đón cửa giãi giề, Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa. Nhà hương cao cuốn bức là, Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng. Bước ra một bước một dừng, Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa Phải chăng nắng quáng đèn lòa, Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh? Bây giờ tình mới rõ tình, Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai. Chước đâu có chước lạ đời? Người đâu mà lại có người tinh ma? Rõ ràng thật lứa đôi ta, Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi. Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao. Bây giờ đất thấp trời cao, Ăn làm sao nói làm sao bây giờ? Càng trông mặt càng ngẩn ngơ, Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời. Sợ uy dám chẳng vâng lời, Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều. Sinh đà phách lạc hồn siêu Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây? Nhân làm sao đến thế này? Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi! Sợ quen dám hở ra lời, Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa. Tiểu thư trông mặt hỏi tra Mới về có việc chi mà động dong? Sinh rằng hiếu phục vừa xong, Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên. Khen rằng Hiếu tử đã nên! Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu. Vợ chồng chén tạc chén thù, Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi. Bắt khoan bắt nhặt đến lời, Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay. Sinh càng như dại như ngây, Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi. Ngảnh đi chợt nói chợt cười, Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra. Tiểu thư vội thét Con Hoa! Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn. Sinh càng nát ruột tan hồn, Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay. Tiểu thư cười nói tỉnh say, Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi. Rằng Hoa nô đủ mọi tài, Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe. Nàng đà tán hoán tê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn. Bốn dây như khóc như than, Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng. Cùng chung một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm. Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương. Tiểu thư lại thét lấy nàng Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi? Sao chẳng biết ý tứ gì? Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi. Sinh càng thảm thiết bồi hồi, Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua. Giọt rồng canh đã điểm ba, Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm. Lòng riêng khấp khởi mừng thầm Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay. Sinh thì gan héo ruột đầy, Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng. Người vào chung gối loan phòng, Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài Bây giờ mới rõ tăm hơi, Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen! Chước đâu rẽ thúy chia uyên, Ai ra đường nấy ai nhìn được ai. Bây giờ một vực một trời, Hết điều khinh trọng hết lời thị phi. Nhẹ như bấc nặng như chì, Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên? Lỡ làng chút phận thuyền quyên, Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? Một mình âm ỉ đêm chày, Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh. Sớm trưa hầu hạ đài doanh, Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra. Lựa lời nàng mới thưa qua Phải khi mình lại xót xa nỗi mình. Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao! Sinh đà rát ruột như bào, Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang! Những e lại lụy đến nàng, Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra. Cúi đầu quỳ trước sân hoa, Thân cung nàng mới dâng qua một tờ. Diện tiền trình với Tiểu thư, Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình. Liền tay trao lại Thúc Sinh, Rằng Tài nên trọng mà tình nên thương! Ví chăng có số giàu sang, Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên! Bể trần chìm nổi thuyền quyên, Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời! Sinh rằng Thật có như lời, Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay! Nghìn xưa âu cũng thế này, Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa. Tiểu thư rằng ý trong tờ, Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không. Thôi thì thôi cũng chiều lòng, Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra. Sẵn Quan Âm Các vườn ta, Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. Có cổ thụ, có sơn hồ, Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh. Tàng tàng trời mới bình minh, Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường. Đưa nàng đến trước Phật đường, Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia. Áo xanh đổi lấy cà sa, Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền. Sớm khuya sắm đủ dầu đèn, Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà. Nàng từ lánh gót vườn hoa, Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Nhân duyên đâu lại còn mong, Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi. Phật tiền thảm lấp sầu vùi, Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương. Cho hay giọt nước cành dương, Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên. Nâu sồng từ trở màu thiền, Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu, Cửa thiền, then nhặt, lưới mau, Nói lời trước mặt, rời châu vắng người. Gác kinh viện sách đôi nơi, Trong gang tấc lại gấp mười quan san. Những là ngậm thở nuốt than, Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà. Thừa cơ, sinh mới lẻn ra, Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng. Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng, Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh Đã cam chịu bạc với tình, Chúa xuân để tội một mình cho hoa! Thấp cơ thua trí đàn bà, Trông vào đau ruột nói ra ngại lời. Vì ta cho lụy đến người, Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh! Quản chi lên thác xuống ghềnh, Cũng toan sống thác với tình cho xong. Tông đường chút chửa cam lòng, Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai. Thẹn mình đá nát vàng phai, Trăm thân dễ chuộc một lời được sao? Nàng rằng Chiếc bách sóng đào, Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may! Chút thân quằn quại vũng lầy, Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao? Cũng liều một giọt mưa rào, Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay! Xót vì cầm đã bén dây, Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta. Liệu bài mở cửa cho ra, Ấy là tình nặng ấy là ân sâu! Sinh rằng Riêng tưởng bấy lâu, Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường. Nữa khi giông tố phũ phàng, Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây. Liệu mà xa chạy cao bay, Ái ân ta có ngần này mà thôi! Bây giờ kẻ ngược người xuôi, Biết bao giờ lại nối lời nước non? Dẫu rằng sông cạn đá mòn, Con tằm đến thác cũng còn vương tơ! Cùng nhau kể lể sau xưa, Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời. Mặt trông tay chẳng nỡ rời, Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa. Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra, Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào. Cười cười, nói nói ngọt ngào, Hỏi Chàng mới ở chốn nào lại chơi? Dối quanh Sinh mới liệu lời Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh. Khen rằng Bút pháp đã tinh, So vào với thiếp Lan đình nào thua! Tiếc thay lưu lạc giang hồ, Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài! Thiền trà cạn chén hồng mai, Thong dong nối gót thư trai cùng về. Nàng càng e lệ ủ ê, Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau. Hoa rằng Bà đã đến lâu, Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ. Rành rành kẽ tóc chân tơ, Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường. Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương, Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than. Ngăn tôi đứng lại một bên, Chán tai rồi mới bước lên trên lầu. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu Đàn bà thế ấy thấy âu một người! Ấy mới gan ấy mới tài, Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời! Người đâu sâu sắc nước đời, Mà chàng Thúc phải ra người bó tay! Thực tang bắt được dường này, Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng. Thế mà im chẳng đãi đằng, Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng! Giận dầu ra dạ thế thường, Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu! Thân ta ta phải lo âu, Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này! Ví chăng chắp cánh cao bay, Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa! Phận bèo bao quản nước sa, Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Chỉn e quê khách một mình, Tay không chưa dễ tìm vành ấm no! Nghĩ đi nghĩ lại quanh co, Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân. Bên mình giắt để hộ thân, Lần nghe canh đã một phần trống ba. Cất mình qua ngọn tường hoa, Lần đường theo bóng trăng tà về tây. 8. Kiều gặp Từ Hải Câu 2029-2288 Gói gọn trong 259 câu thơ Kiều này là câu chuyện Kiều ở lầu xanh gặp được Từ Hải, một anh hùng lừng danh thời đó. Hai bên đã phải lòng nhau, Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và cưới nàng về làm vợ. Mịt mù dặm cát đồi cây, Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương. Canh khuya thân gái dặm trường, Phần e đường xá, phần thương dãi dầu! Trời đông vừa rạng ngàn dâu, Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà! Chùa đâu trông thấy nẻo xa, Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài. Xăm xăm gõ mái cửa ngoài, Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong. Thấy màu ăn mặc nâu sồng, Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương. Gạn gùng ngành ngọn cho tường, Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh, Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu. Bản sư rồi cũng đến sau, Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh. Rày vâng diện hiến rành rành, Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra. Xem qua sư mới dạy qua Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình. Chỉ e đường sá một mình, Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày. Gửi thân được chốn am mây, Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong. Kệ kinh câu cũ thuộc lòng, Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay. Sớm khuya lá bối phướn mây, Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương. Thấy nàng thông tuệ khác thường, Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân. Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân, Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời. Gió quang mây tạnh thảnh thơi, Có người đàn việt lên chơi cửa Già. Giở đồ chuông khánh xem qua, Khen rằng Khéo giống của nhà Hoạn nương! Giác Duyên thực ý lo lường, Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau. Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu, Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay Bây giờ sự đã dường này, Phận hèn dù rủi, dù may, tại người. Giác Duyên nghe nói rụng rời, Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong. Rỉ tai nàng mới giãi lòng Ở đây cửa Phật là không hẹp gì; E chăng những sự bất kỳ, Để nàng cho đến thế thì cũng thương! Lánh xa, trước liệu tìm đường, Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê! Có nhà họ Bạc bên kia, Am mây quen lối đi về dầu hương. Nhắn sang, dặn hết mọi đường, Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân. Xem thêm Những mừng được chốn an thân, Vội vàng nào kịp tính gần tính xa. Nào ngờ cũng tổ bợm già, Bạc bà học với Tú bà đồng môn! Thấy nàng mặt phấn tươi son, Mừng thầm được mối bán buôn có lời. Hư không đặt để nên lời, Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen. Mụ càng xua đuổi cho liền, Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần. Rằng Nàng muôn dặm một thân, Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa. Khéo oan gia, của phá gia, Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây! Kíp toan kiếm chốn xe dây, Không dưng chưa dễ mà bay đường trời! Nơi gần thì chẳng tiện nơi, Nơi xa thì chẳng có người nào xa. Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà, Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai. Cửa hàng buôn bán châu Thai, Thực thà có một, đơn sai chẳng hề. Thế nào nàng cũng phải nghe, Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai. Bấy giờ ai lại biết ai, Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh. Nàng dù quyết chẳng thuận tình, Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau. Nàng càng mặt ủ mày chau, Càng nghe mụ nói, càng đau như dần. Nghĩ mình túng đất, sẩy chân, Thế cùng nàng mới xa gần thở than Thiếp như con én lạc đàn, Phải cung rày đã sợ làn cây cong! Cùng đường dù tính chữ tòng, Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Nữa khi muôn một thế nào, Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu? Dù ai lòng có sở cầu, Tâm mình xin quyết với nhau một lời. Chứng minh có đất, có Trời, Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì? Được lời mụ mới ra đi, Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh. Một nhà dọn dẹp linh đình, Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang. Bạc sinh quì xuống vội vàng, Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công. Trước sân lòng đã giãi lòng, Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên. Thành thân mới rước xuống thuyền, Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai. Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi, Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày. Cũng nhà hành viện xưa nay, Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người. Xem người định giá vừa rồi, Mối hàng một, đã ra mười, thì buông. Mượn người thuê kiệu rước nường, Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa! Kiệu hoa đặt trước thềm hoa, Bên trong thấy một mụ ra vội vàng. Đưa nàng vào lạy gia đường, Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh! Thoắt trông nàng đã biết tình, Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao. Chém cha cái số hoa đào, Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi! Nghĩ đời mà chán cho đời, Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen! Tiếc thay nước đã đánh phèn, Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần! Hồng quân với khách hồng quần, Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha. Lỡ từ lạc bước bước ra, Cái thân liệu những từ nhà liệu đi. Đầu xanh đã tội tình chi? Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi. Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Lần thu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi, Râu hùm, hàm én, mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo. Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều, Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa. Từ rằng Tâm phúc tương cờ Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào có không? Một đời được mấy anh hùng, Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi! Nàng rằng Người dạy quá lời, Thân này còn dám xem ai làm thường! Chút riêng chọn đá thử vàng, Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu? Còn như vào trước ra sau, Ai cho kén chọn vàng thau tại mình. Từ rằng Lời nói hữu tình, Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Lại đây xem lại cho gần, Phỏng tin được một vài phần hay không? Thưa rằng Lượng cả bao dong, Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau! Nghe lời vừa ý gật đầu, Cười rằng Tri kỷ trước sau mấy người! Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! Một lời đã biết tên ta, Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau! Hai bên ý hợp tâm đầu, Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân, Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn. Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền nguyên, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong. Nàng rằng Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi! Từ rằng Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia, Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì? Quyết lời rứt áo ra đi, Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi. Nàng thì chiếc bóng song mai, Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây. Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy, Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân. Đoái thương muôn dặm tử phần Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa; Xót thay huyên cỗi xuân già, Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi. Chốc là mười mấy năm trời, Còn ra khi đã da mồi tóc sương. Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Duyên em dù nối chỉ hồng, May ra khi đã tay bồng tay mang. Tấc lòng cố quốc tha hương, Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. Đêm ngày luống những âm thầm, Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương, Ngất trời sát khí mơ màng, Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh. Người quen kẻ thuộc chung quanh Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi. Nàng rằng Trước đã hẹn lời, Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa. Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa. Giáp binh kéo đến quanh nhà, Đồng thanh cùng gửi nào là phu nhân? Hai bên mười vị tướng quân, Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu. Cung nga, thể nữ nối sau, Rằng Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui. Sẵn sàng phượng liễn loan nghi, Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng. Dựng cờ, nổi trống lên đàng, Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau. Hoả bài tiền lộ ruổi mau, Nam đình nghe động trống chầu đại doanh. Kéo cờ lũy, phát súng thành, Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài. Rỡ mình, là vẻ cân đai, Hãy còn hàm én mày ngài như xưa. Cười rằng Cá nước duyên ưa, Nhớ lời nói những bao giờ hay không? Anh hùng mới biết anh hùng, Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa? Nàng rằng Chút phận ngây thơ, Cũng may dây cát được nhờ bóng cây. Đến bây giờ mới thấy đây, Mà lòng đã chắc những ngày một hai. Cùng nhau trông mặt cả cười, Dan tay về chốn trướng mai tự tình. Tiệc bày thưởng tướng khao binh Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân. Vinh hoa bõ lúc phong trần, Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày. 9. Kiều báo thù Câu 2289-2418 Nối tiếp câu chuyện sau khi cưới Kiều về làm vợ, Từ Hải cũng lập được sự nghiệp và đã giúp Thúy Kiều báo ân báo oán, tất cả đã được tác giả thể hiện trọn vẹn trong 129 câu thơ Kiều dưới đây. Trong quân có lúc vui vầy, Thong dong mới kể sự ngày hàn vi Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng, Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong. Từ Công nghe nói thủy chung, Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang. Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng, Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao. Ba quân chỉ ngọn cờ đào, Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri, Mấy người phụ bạc xưa kia, Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra. Lại sai lệnh tiễn truyền qua, Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên, Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời. Thệ sư kể hết mọi lời, Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy! Đạo trời báo phục chỉn ghê, Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi, Quân trung gươm lớn áo dài, Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi. Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi, Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. Trướng hùm mở giữa trung quân, Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi. Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên. Từ rằng ân, oán hai bên, Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh Nàng rằng Nhờ cậy uy linh, Hãy xin báo đáp ân tình cho phu. Báo ân rồi sẽ trả thù. Từ rằng Việc ấy phó cho mặc nàng. Cho gươm mời đến Thúc lang, Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run. Nàng rằng Nghĩa trọng nghìn non, Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là! Vợ chàng quỷ quái tinh ma, Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau! Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Thúc Sinh trông mặt bấy giờ, Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm. Lòng riêng mừng sợ khôn cầm, Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai. Mụ già, sư trưởng thứ hai, Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên Dắt tay mở mặt cho nhìn Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi. Nhớ khi lỡ bước xẩy vời, Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương. Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân? Hai người, trông mặt tần ngần, Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui. Nàng rằng Xin hãy dốn ngôi, Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù! Xem thêm Kíp truyền chư tướng hiến phù, Lại đem các tích phạm tù hậu tra. Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra, Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư. Thoạt trông nàng đã chào thưa Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây? Đàn bà dễ có mấy tay, Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan? Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều! Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca. Rằng Tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình, Nghĩ cho khi gác viết kinh, Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Lòng riêng riêng những kính yêu; Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai. Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng? Khen cho Thật đã nên rằng, Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời, Tha ra thì cũng may đời, Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen. Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay. Tạ lòng lạy trước sân may, Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào, Nàng rằng Lồng lộng trời cao, Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta? Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh, Các tên tội ấy đáng tình còn sao? Lệnh quân truyền xuống nội đao, Thề sao thì lại cứ sao gia hình, Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời. Cho hay muôn sự tại trời, Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta! Mấy người bạc ác tinh ma, Mình làm mình chịu kêu mà ai thương. Ba quân đông mặt pháp trường, Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi. Việc nàng báo phục vừa rồi, Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui. Nàng rằng Thiên tải nhất thì, Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn. Rồi đây bèo hợp mây tan, Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu! Sư rằng Cũng chẳng bao lâu, Trong năm năm lại gặp nhau đó mà. Nhớ ngày hành cước phương xa, Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri. Bảo cho hội ngộ chi kỳ, Năm nay là một nữa thì năm năm. Mới hay tiền định chẳng lầm, Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau. Còn nhiều ân ái với nhau, Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì? Nàng rằng Tiền định tiên tri, Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai. Họa bao giờ có gặp người, Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân. Giác Duyên vâng dặn ân cần, Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài. 10. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn Câu 2419-2738 Nội dung 319 câu thơ tiếp theo trong tập thơ Truyện Kiều nói về việc niềm vui đến với Thúy Kiều không bao lâu, Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến khuyên Từ Hải ra hàng phục triều đình khiến cho Từ Hải bị chết. Kiều bị làm nhục và bị ép gả cho một viên thổ quan. Đau xót và tủi nhục, nàng đã tự tử ở sông Tiền Đường. Nàng từ ân oán rạch ròi, Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng. Tạ ân lạy trước Từ công Chút thân bồ liễu nào mong có rày! Trộm nhờ sấm sét ra tay, Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi! Chạm xương chép dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây! Từ rằng Quốc sĩ xưa nay, Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha! Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ mới là tri ân. Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng. Vội truyền sửa tiệc quân trung, Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Thừa cơ trúc chẻ ngói tan, Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam. Phong trần mài một lưỡi gươm, Những loài giá áo túi cơm sá gì! Nghênh ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương! Trước cờ ai dám tranh cường, Năm năm hùng cứ một phương hải tần. Xem thêm Có quan tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung. Biết Từ là đấng anh hùng, Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn. Đóng quân làm chước chiêu an, Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng. Lại riêng một lễ với nàng, Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân. Tin vào gởi trước trung quân, Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành! Bó thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu? Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? Sao bằng riêng một biên thùy, Sức này đã dễ làm gì được nhau? Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai? Nàng thời thật dạ tin người, Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì! Công tư vẹn cả hai bề, Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước dưới vì nhà, Một là đắc hiếu hai là đắc trung. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa. Nhân khi bàn bạc gần xa, Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào. Rằng Trong Thánh trạch dồi dào, Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu. Bình thành công đức bấy lâu, Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao. Ngẫm từ gây việc binh đao, Đống xương Vô định đã cao bằng đầu. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! Sao bằng lộc trọng quyền cao, Công danh ai dứt lối nào cho qua? Nghe lời nàng nói mặn mà, Thế công Từ mới trở ra thế hàng. Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng, Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. Tin lời thành hạ yêu minh, Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng, Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư. Hồ công quyết kế thừa cơ, Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công. Kéo cờ chiêu phủ tiên phong, Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau. Từ công hờ hững biết đâu, Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên. Hồ công ám hiệu trận tiền, Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ. Đương khi bất ý chẳng ngờ, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn! Tử sinh liều giữa trận tiền, Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân! Khí thiêng khi đã về thần, Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! Trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời. Quan quân truy sát đuổi dài. Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang. Trong hào ngoài lũy tan hoang, Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi. Trong vòng tên đá bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ. Khóc rằng Trí dũng có thừa, Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này! Mặt nào trông thấy nhau đây? Thà liều sống thác một ngày với nhau! Dòng thu như dội cơn sầu, Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên. Lạ thay oan khí tương triền! Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra. Quan quân kẻ lại người qua, Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần. Đem vào đến trước trung quân, Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han. Rằng Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương! Đã hay thành toán miếu đường, Giúp công cũng có lời nàng mới nên. Bây giờ sự đã vẹn tuyền, Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào? Nàng càng giọt ngọc tuôn dào, Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng. Rằng Từ là đấng anh hùng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi! Tin tôi nên quá nghe lời, Đem thân bách chiến làm tôi triều đình. Ngỡ là phu quý phụ vinh, Ai ngờ một phút tan tành thịt xương! Năm năm trời bể ngang tàng, Đem mình đi bỏ chiến trường như không. Khéo khuyên kể lấy làm công, Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu! Xét mình công ít tội nhiều, Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi! Xin cho tiện thổ một doi, Gọi là đắp điếm cho người tử sinh. Hồ công nghe nói thương tình, Truyền cho cảo táng di hình bên sông. Trong quân mở tiệc hạ công, Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan. Bắt nàng thị yến dưới màn, Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu. Một cung gió thảm mưa sầu, Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay! Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu. Hỏi rằng Này khúc ở đâu? Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay! Thưa rằng Bạc mệnh khúc này, Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ. Cung cầm lựa những ngày xưa, Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây! Nghe càng đắm ngắm càng say, Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình! Dạy rằng Hương lửa ba sinh, Dây loan xin nối cầm lành cho ai. Thưa rằng Chút phận lạc loài, Trong mình nghĩ đã có người thác oan. Còn chi nữa cánh hoa tàn, Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân. Rộng thương còn mảnh hồng quần, Hơi tàn được thấy gốc phần là may! Hạ công chén đã quá say, Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra. Nghĩ mình phương diện quốc gia, Quan trên nhắm xuống người ta trông vào. Phải tuồng trăng gió hay sao, Sự này biết tính thế nào được đây? Công nha vừa buổi rạng ngày, Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài. Lệnh quan ai dám cãi lời, Ép tình mới gán cho người thổ quan. Ông tơ thực nhẽ đa đoan! Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên? Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền, Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao. Nàng càng ủ liễu phai đào, Trăm phần nào có phần nào phần tươi? Đành thân cát lấp sóng vùi, Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh! Chân trời mặt bể lênh đênh, Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào, Duyên đâu ai dứt tơ đào, Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay! Thân sao thân đến thế này? Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi! Đã không biết sống là vui, Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương! Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi! Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng ngồi chưa xong. Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường. Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây! Đạm Tiên nàng nhé có hay! Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa, Một thiên tuyệt bút gọi là để sau. Cửa bồng vội mở rèm châu, Trời cao sông rộng một màu bao la. Rằng Từ công hậu đãi ta, Chút vì việc nước mà ra phụ lòng. Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời? Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông! Trông vời con nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang. Thổ quan theo vớt vội vàng, Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi! Thương thay cũng một kiếp người, Hại thay mang lấy sắc tài làm chi! Những là oan khổ lưu ly, Chờ cho hết kiếp còn gì là thân! Mười lăm năm bấy nhiêu lần, Làm gương cho khách hồng quần thử soi! Đời người đến thế thì thôi, Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay. Mấy người hiếu nghĩa xưa nay, Trời làm chi đến lâu ngày càng thương! Giác Duyên từ tiết giã nàng, Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du. Gặp bà Tam Hợp đạo cô, Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng Người sao hiếu nghĩa đủ đường, Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi? Sư rằng Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cõi phúc tình là dây oan. Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan, Vô duyên là phận hồng nhan đã đành, Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chốn thong dong, Ở không yên ổn ngồi không vững vàng. Ma đưa lối quỷ dẫn đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi. Hết nạn ấy đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Trong vòng giáo dựng gươm trần, Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi. Giữa dòng nước dẫy sóng dồi, Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh. Oan kia theo mãi với tình, Một mình mình biết một mình mình hay. Làm cho sống đọa thác đầy, Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! Giác Duyên nghe nói rụng rời Một đời nàng nhé thương ôi còn gì! Sư rằng Song chẳng hề chi, Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều, Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm, Lấy tình thâm trả nghĩa thâm, Bán mình đã động hiếu tâm đến trời! Hại một người cứu muôn người, Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng. Thửa công đức ấy ai bằng? Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi! Khi nên trời cũng chiều người, Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau. Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau, Tiền đường thả một bè lau rước người. Trước sau cho vẹn một lời, Duyên ta mà cũng phúc trời chi không! Giác Duyên nghe nói mừng lòng, Lân la tìm thú bên sông Tiền đường, Đánh tranh chụm nóc thảo đường, Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Thuê năm ngư phủ hai người, Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông. Một lòng chẳng quản mấy công, Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần! Kiều từ gieo xuống duềnh ngân, Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi. Ngư ông kéo lưới vớt người, Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa! Trên mui lướt mướt áo là Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương. Giác Duyên nhận thật mặt nàng, Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai. Mơ màng phách quế hồn mai, Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. Rằng Tôi đã có lòng chờ, Mất công mười mấy năm thừa ở đây. Chị sao phận mỏng phúc dày, Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai! Tâm thành đã thấu đến trời, Bán mình là hiếu cứu người là nhân. Một niềm vì nước vì dân, Âm công cất một đồng cân đã già! Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau. Còn nhiều hưởng thụ về lâu, Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào! Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao, Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai, Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn. Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên, Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề. Thấy nhau mừng rỡ trăm bề, Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư. Một nhà chung chạ sớm trưa, Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng. Bốn bề bát ngát mênh mông, Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau. Nạn xưa trút sạch lầu lầu, Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này. 11. Kim Trọng đi tìm Kiều Câu 2739-2972 Trong 233 câu thơ Kiều tiếp theo này nói về việc Kim Trọng và gia đình đi tìm kiếm Thúy Kiều. Nỗi nàng tai nạn đã đầy, Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương. Từ ngày muôn dặm phù tang, Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà. Vội sang vườn Thúy dò la, Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời. Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Xập xè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa. Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? Láng giềng có kẻ sang chơi, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình. Hỏi ông ông mắc tụng đình, Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha. Hỏi nhà nhà đã dời xa, Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân. Đều là sa sút khó khăn, May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Điều đâu sét đánh lưng trời, Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao! Vội han di trú nơi cao, Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi. Nhà tranh vách đất tả tơi, Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa. Một sân đất cỏ dầm mưa, Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường! Xem thêm Đánh liều lên tiếng ngoài tường, Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra. Dắt tay vội rước vào nhà, Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay. Khóc than kể hết niềm tây Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa? Kiều nhi phận mỏng như tờ, Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng! Gặp cơn gia biến lạ dường, Bán mình nó phải tìm đường cứu cha. Dùng dằng khi bước chân ra, Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần. Trót lời hẹn với lang quân, Mượn con em nó Thúy Vân thay lời. Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên! Kiếp này duyên đã phụ duyên, Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. Mấy lời ký chú đinh ninh, Ghi lòng để dạ cất mình ra đi. Phận sao bạc bấy Kiều nhi! Chàng Kim về đó con thì đi đâu? Ông bà càng nói càng đau, Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa. Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai! Đau đòi đoạn ngất đòi thôi, Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê. Thấy chàng đau nỗi biệt ly, Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên Bây giờ ván đã đóng thuyền, Đã đành phận bạc khôn đền tình chung! Quá thương chút nghĩa đèo bòng, Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao? Dỗ dành khuyên giải trăm chiều, Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền. Thề xưa giở đến kim hoàn, Của xưa lại giở đến đàn với hương. Sinh càng trông thấy càng thương. Gan càng tức tối ruột càng xót xa. Rằng Tôi trót quá chân ra, Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo. Cùng nhau thề thốt đã nhiều, Những điều vàng đá phải điều nói không! Chưa chăn gối cũng vợ chồng, Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang? Bao nhiêu của mấy ngày đàng, Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi! Nỗi thương nói chẳng hết lời, Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra. Vội về sửa chốn vườn hoa, Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang. Thần hôn chăm chút lễ thường, Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa. Đinh ninh mài lệ chép thơ, Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe. Biết bao công mướn của thuê, Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi. Người một nơi hỏi một nơi, Mênh mông nào biết bể trời nơi nao? Sinh càng thảm thiết khát khao, Như nung gan sắt như bào lòng son. Ruột tằm ngày một héo don, Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao. Xuân huyên lo sợ biết bao, Quá ra khi đến thế nào mà hay! Vội vàng sắm sửa chọn ngày, Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng. Người yểu điệu kẻ văn chương, Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì, Tuy rằng vui chữ vu quy, Vui nào đã cất sầu kia được nào! Khi ăn ở lúc ra vào, Càng âu duyên mới càng dào tình xưa. Nỗi nàng nhớ đến bao giờ, Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng. Có khi vắng vẻ thư phòng, Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa. Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm. Dường như bên nóc trước thềm, Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng, Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây. Những là phiền muộn đêm ngày, Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần? Chế khoa gặp hội trường văn. Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày. Cửa trời rộng mở đường mây, Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. Chàng Vương nhớ đến xa gần, Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền. Tình xưa ân trả nghĩa đền, Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần. Kim từ nhẹ bước thanh vân, Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương. Ấy ai dặn ngọc thề vàng, Bây giờ kim mã ngọc đường với ai? Ngọn bèo chân sóng lạc loài, Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly. Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy, Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn. Cầm đường ngày tháng thanh nhàn, Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao. Phòng xuân trướng rủ hoa đào, Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng. Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng, Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi. Họ Lâm thanh với Lâm truy, Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm. Trong cơ thanh khí tương tầm, Ở đây hoặc có giai âm chăng là? Thăng đường chàng mới hỏi tra, Họ Đô có kẻ lại già thưa lên Sự này đã ngoại mười niên, Tôi đà biết mặt biết tên rành rành. Tú bà cùng Mã Giám sinh, Đi mua người ở Bắc kinh đưa về. Thúy Kiều tài sắc ai bì, Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ. Kiên trinh chẳng phải gan vừa, Liều mình thế ấy phải lừa thế kia. Phong trần chịu đã ê chề, Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang. Phải tay vợ cả phũ phàng, Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa. Rứt mình nàng phải trốn ra, Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia. Thoắt buôn về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi! Bỗng đâu lại gặp một người, Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh. Trong tay mười vạn tinh binh, Kéo về đóng chật một thành Lâm truy Tóc tơ các tích mọi khi, Oán thì trả oán ân thì trả ân. Đã nên có nghĩa có nhân, Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen. Chưa từng được họ được tên, Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường. Nghe lời đô nói rõ ràng, Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh. Nỗi nàng hỏi hết phân minh, Chồng con đâu tá tính danh là gì? Thúc rằng Gặp buổi loạn ly, Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ. Đại vương tên Hải họ Từ, Đánh quen trăm trận sức dư muôn người Gặp nàng khi ở châu Thai, Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên, Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng. Đại quân đồn đóng cõi đông, Về sau chẳng biết vân mồng làm sao. Nghe tường ngành ngọn tiêu hao, Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ. Xót thay chiếc lá bơ vơ, Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong? Hoa trôi nước chảy xuôi dòng, Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan! Lời xưa đã lỗi muôn vàn, Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây, Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây, Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi? Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an! Rắp mong treo ấn từ quan, Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha. Dấn mình trong án can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau. Nghĩ điều trời thẳm vực sâu, Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! Những là nấn ná đợi tin, Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dời Năm mây bỗng thấy chiếu trời, Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành. Kim thì cải nhậm Nam bình, Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu dương. Sắm xanh xe ngựa vội vàng, Hai nhà cùng thuận một đường phó quan. Xảy nghe thế giặc đã tan, Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiếc giang. Được tin Kim mới rủ Vương, Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa. Hàng Châu đến đó bây giờ, Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành. Rằng Ngày hôm nọ giao binh, Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù. Nàng đà gieo ngọc trầm châu, Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan! Thương ôi! không hợp mà tan, Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Chiêu hồn thiết vị lễ thường, Giải oan lập một đàn tràng bên sông. Ngọn triều non bạc trùng trùng, Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. Tình thâm bể thảm lạ điều, Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào? 12. Kiều – Kim Trọng đoàn tụ Câu 2973-3254 281 câu thơ cuối cùng trong tập thơ Truyện Kiều là cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và cha mẹ, hai em cùng chàng Kim Trọng sau 15 năm trời lưu lạc. Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi. Trông lên linh vị chữ bài, Thất kinh mới hỏi Những người đâu ta? Với nàng thân thích gần xa, Người còn sao bỗng làm ma khóc người? Nghe tin ngơ ngác rụng rời, Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra Này chồng này mẹ này cha, Này là em ruột này là em dâu. Thật tin nghe đã bấy lâu, Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường! Sư rằng Nhân quả với nàng, Lâm truy buổi trước Tiền đường buổi sau. Khi nàng gieo ngọc trầm châu, Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về, Cùng nhau nương cửa bồ đề, Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa. Phật tiền ngày bạc lân la, Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây. Nghe tin nở mặt nở mày, Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? Từ phen chiếc lá lìa rừng, Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây. Rõ ràng hoa rụng hương bay, Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi. Minh dương đôi ngả chắc rồi, Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên, Bộ hành một lũ theo liền một khi. Bẻ lau vạch cỏ tìm đi, Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần. Quanh co theo dải giang tân, Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra. Trông xem đủ mặt một nhà Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi. Hai em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! Giọt châu thánh thót quẹn bào, Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình! Huyên già dưới gối gieo mình, Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi Từ con lưu lạc quê người, Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây! Ông bà trông mặt cầm tay, Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra. Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa, Mười phần xuân có gầy ba bốn phần. Nỗi mừng biết lấy chi cân? Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu! Hai em hỏi trước han sau, Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi. Quây nhau lạy trước Phật đài, Tái sinh trần tạ lòng người từ bi. Xem thêm Kiệu hoa giục giã tức thì, Vương ông dạy rước cùng về một nơi. Nàng rằng Chút phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Tính rằng mặt nước chân mây, Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Được rày tái thế tương phùng. Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì, Đã tu tu trót quá thì thì thôi! Trùng sinh ân nặng bể trời, Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi? Ông rằng Bỉ thử nhất thì, Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Phải điều cầu Phật cầu Tiên, Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây? Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung. Nghe lời nàng cũng chiều lòng, Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra. Một nhà về đến quan nha, Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. Tàng tàng chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới giãi bày một hai. Rằng Trong tác hợp cơ trời. Hai bên gặp gỡ một lời kết giao. Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em. Cũng là phận cải duyên kim, Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? Những là rày ước mai ao, Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình! Bây giờ gương vỡ lại lành, Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi. Còn duyên may lại còn người, Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa. Quả mai ba bảy đương vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì. Dứt lời nàng vội gạt đi Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ? Một lời tuy có ước xưa, Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều. Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi! Chàng rằng Nói cũng lạ đời, Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao? Một lời đã trót thâm giao, Dưới dày có đất trên cao có trời! Dẫu rằng vật đổi sao dời, Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh! Duyên kia có phụ chi tình, Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai? Nàng rằng Gia thất duyên hài, Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng. Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng, Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa. Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa. Bấy chầy gió táp mưa sa. Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn. Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? Nghĩ mình chẳng hổ mình sao, Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! Đã hay chàng nặng vì tình, Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! Từ rày khép cửa phòng thu, Chẳng tu thì cũng như tu mới là! Chàng dù nghĩ đến tình xa, Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Nói chi kết tóc xe tơ, Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời! Chàng rằng Khéo nói nên lời, Mà trong lẽ phải có người có ta! Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường, Có khi biến có khi thường, Có quyền nào phải một đường chấp kinh. Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời. Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Có điều chi nữa mà ngờ, Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu! Nghe chàng nói đã hết điều, Hai thân thì cũng quyết theo một bài. Hết lời khôn lẽ chối lời, Cúi đầu nàng những vắn dài thở than. Nhà vừa mở tiệc đoàn viên, Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. Cùng nhau giao bái một nhà, Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi. Động phòng dìu dặt chén mồi, Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa. Những từ sen ngó đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây! Tình duyên ấy hợp tan này, Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao. Canh khuya bức gấm rủ thao, Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân. Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình. Nàng rằng Phận thiếp đã đành, Có làm chi nữa cái mình bỏ đi! Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi, Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may. Riêng lòng đã thẹn lắm thay, Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi! Những như âu yếm vành ngoài, Còn toan mở mặt với người cho qua. Lại như những thói người ta, Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. Khéo là giở nhuốc bày trò, Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi! Người yêu ta xấu với người, Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau! Cửa nhà dù tính về sau, Thì còn em đó lọ cầu chị đây. Chữ trinh còn một chút này, Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan! Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi? Chàng rằng Gắn bó một lời, Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau. Xót người lưu lạc bấy lâu, Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều! Thương nhau sinh tử đã liều, Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình. Chừng xuân tơ liễu còn xanh, Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân. Gương trong chẳng chút bụi trần, Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm! Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Nghe lời sửa áo cài trâm, Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng Thân tàn gạn đục khơi trong, Là nhờ quân tử khác lòng người ta. Mấy lời tâm phúc ruột rà, Tương tri dường ấy mới là tương tri! Chở che đùm bọc thiếu chi, Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay! Thoắt thôi tay lại cầm tay, Càng yêu vì nết càng say vì tình. Thêm nến giá nối hương bình, Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan. Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa. Nàng rằng Vì mấy đường tơ, Lầm người cho đến bây giờ mới thôi! Ăn năn thì sự đã rồi! Nể lòng người cũ vâng lời một phen. Phím đàn dìu dặt tay tiên, Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa. Khúc đâu đầm ấm dương hòa, Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh. Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông! Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao. Chàng rằng Phổ ấy tay nào, Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? Tẻ vui bởi tại lòng này, Hay là khổ tận đến ngày cam lai? Nàng rằng Ví chút nghề chơi, Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu! Một phen tri kỷ cùng nhau, Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ, Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông. Tình riêng chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao. Cho hay thục nữ chí cao, Phải người tối mận sớm đào như ai? Hai tình vẹn vẽ hòa hai, Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ. Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. Ba sinh đã phỉ mười nguyền, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. Nhớ lời lập một am mây, Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên. Đến nơi đóng cửa cài then, Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà, Sư đà hái thuốc phương xa, Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu? Nặng vì chút nghĩa bấy lâu, Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai. Một nhà phúc lộc gồm hai, Ngàn năm dằng dặc quan giai lần lần. Thừa gia chẳng hết nàng Vân, Một cây cù mộc một sân quế hòe. Phong lưu phú quý ai bì, Vườn xuân một cửa để bia muôn đời Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Có đâu thiên vị người nào, Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh. Có thể thấy qua 3254 câu thơ Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc bấy giờ qua từng câu thơ. “Ma lực” các con chữ trong Truyện Kiều dường như có thể khiến người đọc cảm nhận được cảnh ngộ, thân phận, hạnh phúc, khổ đau của các nhân vật, đặc biệt là nàng Thúy Kiều. Sưu tầm Nguồn ảnh Internet Thơ Nguyễn Du ❤️ Tuyển Tập Trọn Bộ Những Bài Hay Nhất ✅ Các Câu Thơ Thể Hiện Sâu Sắc Và Đầy Ấn Tượng Của Đại Thi Hào Việt Nam. Tuyển Tập Thơ Nguyễn DuThơ Cảnh Ngày XuânBài Thơ Thúy KiềuNhững Câu Thơ Hay Trong Truyện KiềuThơ Chữ Hán Của Nguyễn DuThơ Truyện Kiều Lớp 9Những Câu Thơ Nói Về Truyện KiềuThơ Tình Nguyễn DuBài Thơ Trao Duyên Của Nguyễn DuThơ Nguyễn Du Lớp 10 Dưới đây là tuyển tập một số bài thơ của đại thi hào Nguyễn Du trong tập thơ Bắc hành Tạp lục. Thuyền ra đi trên sông Minh Chiêng trống thùng thùng ra cửa sôngMột thuyền lướt sóng giữa muôn trùngMây tan bất chợt hao gầy núiNước lụt mới về vẩn đục dòngDặm biệt, anh em đà tưởng nhớá chồng, con cháu cứ ngờ trôngHoa Sơn chớ vượt khi chiều xếSợ vẳng bên tai vượn não nùng Mừng xuống khỏi thác Thành khẩn dâng hương vái trước đềnMột thuyền theo nước cứ lênh đênhMừng người rắn cọp không làm dữThích cảnh non sông như đã quenMuôn cụm tùng xanh sư trú ngụMột Hòn Én lạnh khói dâng lênBên song lặng lẽ không gì bậnNghe khúc chài ca, ngó nắng nghiêng êm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang Một dòng nước xẻ núi muôn trùngHai dãy nhìn nhau đá chất chồngVượn hú ngọn cây dường lạc lốiChó kêu rừng thẳm chắc gần thônNúi mây bốn ngả tình cô quạnhHồ Việt chung thuyền mối thiết thânLàng cũ mười năm quên mất hướngQuê nhà nẻo mộng nhớ về thăm 👉Ngoài Tuyển Tập Thơ Nguyễn Du Chia sẻ đến bạn Thơ Thúy Kiều ❤️ Trọn Bộ 3254 Câu Thơ Truyện Kiều Thơ Cảnh Ngày Xuân Mời bạn cùng ngâm qua 1 trích đoạn Cảnh ngày xuân của nhà thơ Nguyễn Du. Ngày xuân con én đưa thoiThiều quang chin chục đã ngoài sáu mươiCỏ non xanh rợn chân trờiCành lê trắng điểm một vài bông hoaThanh minh trong tiết tháng baLễ là tảo mộ, hội là đạp thanhGần xa nô nức yến oanhChị em sắm sửa bộ hành chơi xuânDập dìu tài tử giai nhânNgựa xe như nước áo quần như nêmNgổn ngang gò đống kéo lênThoi vàng vó rắc tro tiền giấy bayTà à bóng ngả về tâyChị em thơ thẩn dan tay ra vềBước dần theo ngọn phong khêLần xem phong cảnh có bề thanh thanhNao nao dòng nước uốn quanh,Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắt ngang 👉Bên cạnh Thơ Cảnh Ngày Xuân Tặng bạn trọn bộ Bài Thơ Hóa Trị ❤️️ Bài Thơ Tên Nguyên Tố Hóa Học Lớp 8 Bài Thơ Thúy Kiều Đoạn thơ dưới đây là phần đầu của tập truyện Kiều Nguyễn Du được nhiều người nhắc đến nhất. Mời bạn Cùng tham khảo. Trăm năm trong cõi người ta,Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét qua một cuộc bể dâu,Những điều trông thấy mà đau đớn gì bỉ sắc tư phong,Trời xanh quen thói má hồng đánh thơm lần giở trước đèn,Phong tình cổ lục còn truyền sử Năm Gia-tĩnh triều Minh,Bốn phương phẳng lặng hai kinh chữ nhà viên ngoại họ Vương,Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trai con thứ rốt lòng,Vương Quan là chữ nối dòng nho lòng hai ả tố nga,Thúy Kiều là chị em là Thúy cốt cách tuyết tinh thần,Mỗi người một vẻ mười phân vẹn xem trang trọng khác vời,Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở cười ngọc thốt đoan trang,Mây thua nước tóc tuyết nhường màu càng sắc sảo mặn mà,So bề tài sắc lại là phần thu thủy nét xuân sơn,Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém hai nghiêng nước nghiêng thành,Sắc đành đòi một tài đành họa minh vốn sẵn tính trời,Pha nghề thi họa đủ mùi ca thương làu bậc ngũ âm,Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một nhà tay lựa nên xoang,Một thiên Bạc mệnh lại càng não lưu rất mực hồng quần,Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.£m đềm trướng rủ màn che,Tường đông ong bướm đi về mặc ai.… 👉Ngoài Bài Thơ Thúy Kiều của Nguyễn Du bật mí đến bạn Ghen Nguyễn Bính ❤️ Tuyển Tập Thơ, Bài Hát, Phân Tích Những Câu Thơ Hay Trong Truyện Kiều Dưới đây là chọn lọc top 50 câu thơ hay nhất trong tập truyện Kiều của Nguyễn Du. Cỏ non xanh tận chân trờiCành lê trắng điểm một vài bông làm vợ khắp người taHại thay thác xuống làm ma không đâu gặp gỡ làm chiTrăm năm biết có duyên gì hay không?Ngổn ngang trăm mối bên lòngNên câu tuyệt diệu ngụ trong tính mình lưỡng lự canh chầyĐường xa nghĩ nỗi sau này mà đong càng khắc càng đầyBa thu dồn lại một ngày dài tương phất phất giò đànHương gây mùi nhớ trà khan giọng chiều như giục cơn sầuVi lô hiu hắt như mầu khơi trăm năm, kể từ đâyCủa tin gọi một chút này làm giờ rõ mặt đôi taBiết đâu rồi nữa chẳng là chiêm vàng giữ ngọc cho hayCho đành lòng kẻ chân mây cuối thề còn đó trơ trơDám xa xôi mặt mà thơ thớt tơ ghét bỏ chi nhauChưa vui sum họp đã sầu chia lòng tử biệt sinh lyThân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến sao đành vậy cũng vầyCầm như chẳng đỗ những ngày còn tay đã sẵn đồng tiềnDù lòng đổi trắng thay đen khó lòng kẻ ở người điLệ rơi thấm đá, tơ chia rũ thân đến bước lạc loàiNhị đào thà bẻ cho người tình ngon kề đến tận nơiVốn nhà cũng tiếc, của trời cũng trường thay lúc phân kỳVó câu khấp khểnh, bánh xe gập con còn nói chi conSống nhờ đất khách, thác chôn quê người .Từ đây góc bể bên trờiNắng mưa thui thủi quê người một lô san sát hơi mayMột trời thu để riêng ai một khuya ngất tạnh, mù khơiThấy trăng mà thẹn những lời non sông. Thoắt trông nhờn nhợt màu daĂn gì to lớn đẫy đà làm ôi tài sắc bậc nàyMột dao oan nghiệt đứt dây phong liều nhắm mắt đưa chânMà xem con tạo xoay vần đến thu khắc lậu, canh tànGió cây trút lá, trăng ngàn ngậm lươn bao quản lấm đầuChút lòng trinh bạch từ sau xin là vui gượng kẻo làAi tri âm đó mặn mà với đày vào kiếp phong trầnSao cho sỉ nhục một lần mới màu trong ngọc trắng ngàDày dày sẵn đúc một toà thiên sao cho trọn thì thươngTính sao cho vẹn mọi đường thì trăng ai xẻ làm đôiNửa in gối chiếc nửa soi dặm lanh đáy nước in trờiThành xây khói biếc non phơi bóng vào phòng cũ lầu thơTro than một đống, nắng mưa bốn phương mây trắng một màuTrông vời cố quốc biết đâu là ngoài thơn thớt nói cườiMà trong nham hiểm giết người không như bấc, nặng như chìGỡ cho ra nợ còn gì là bèo bao quản nước saLênh đênh đâu nữa cũng là lênh thân tránh chẳng khỏi trờiCũng liều mặt phấn cho rồi ngày bây giờ mới thấy đâyMà lòng đã chắc những ngày một thay chút nghĩa cũ càngDẫu lìa ngó ý còn vương tơ bà dễ có mấy tayĐời xưa mấy mặt, đời này mấy trần mài một lưỡi gươmNhững phường giá áo túi cơn sá trời khuấy nước mặc dầuDọc ngang nào biết trên đầu có cung gió thảm mưa sầuBốn dây rỏ máu năm đầu ngón tranh chụm nóc thảo đườngMột gian nước biếc mây vàng chia thờ lúc tỉnh lúc mêMáu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bây giờ là bao giờRõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao. 👉Bên cạnh Những Câu Thơ Hay Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du tiết lộ đến bạn Thơ Huy Cận ❤️️ Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay Nhất Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du Gửi đến bạn tham khảo một số bài thơ bằng chữ Hán của Đại thi hào Nguyễn Du dưới đây. Thăng Long đệ nhất thủ Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồngBạch đầu do đắc kiến Thăng LongThiên niên cự thất thành quan đạoNhất phiến tân thành một cố cungTương thức mỹ nhân khan bão tửồng du hiệp thiếu tẫn thành ôngQuan tâm nhất dạ khổ vô thụyoản địch thanh thanh minh nguyệt trung Mạc phủ tức sự Triệt dạ la thanh bất tạm đìnhCô đăng tương đối đáo thiên minhKinh tuần khứ quốc tâm như tửNhất lộ phùng nhân diện tẫn sinhSơn lộc tích nê thâm một mãKhê tuyền phục quái lão thành tinhKhách tình chí thử dĩ vô hạnHựu thị Yên sơn vạn lý hành Hoàng Sào binh mã Đại tiểu Hoa Sơn sổ lý phânHoàng Sào di tích tại giang tânKhởi tri Kim Thống Tấn trung đếNãi xuất Tôn sơn bảng ngoại nhânNgộ quốc mỗ nhân câu hạng lượngCùng thời tự khả biến phong vânViễn lai nghĩ vấn thiên niên sựGiang hộ dao đầu nhược bất văn 👉Ngoài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du bật mí đến bạn Thơ Công Thức Toán Tiểu Học Hay ❤️️ Dễ Nhớ Nhất Thơ Truyện Kiều Lớp 9 Trong phần ngữ văn lớp 9 các bạn học sinh sẽ được học trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều đầy ấn tượng. Cùng ngâm qua đoạn thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Du ngay nhé! Mã Giám Sinh mua Kiều Gần miền có một mụ nào,Đưa người viễn khách tìm vào vấn tên, rằng “Mã Giám Sinh”,Hỏi quê, rằng “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.Quá niên trạc ngoại tứ tuần,Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh thầy sau tớ lao xao,Nhà băng đưa mối rước vào lầu trên ngồi tót sỗ sàng,Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra…Nỗi mình nên tức nỗi nhà,Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng!Ngại ngùng dợn gió e sương,Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt càng vén tóc bắt tay,Nét buồn như cúc điệu gầy như đo cân sức cân tài,Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt nồng một vẻ một ưa,Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt “Mua ngọc đến Lam Kiều,Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”Mối rằng “Giá đáng nghìn vàng,Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!”Cò kè bớt một thêm hai,Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm. 👉Ngoài Thơ Truyện Kiều Lớp 9 tặng bạn top Thơ Nguyễn Bính Hay ❤️ Tuyển Tập Chùm Thơ Nổi Tiếng Nhất Những Câu Thơ Nói Về Truyện Kiều Truyện Kiều là một tác phẩm nổi tiếng của Đại thi hào Nguyễn Du, chính vì vậy mà đã có rất nhiều nhà thơ nói về tuyệt tác này. Vịnh KiềuTản Đà Tiếng trống biên đình bốn phía ranTướng quân chi tiếc cái hoa tànĐôi hàng nước mắt, đôi làn sóngNửa đám ma chồng, nửa tiệc quanTổng đốc ví thương người bạc phậnTiền Đường đâu đã mả hồng nhanBơ vơ nấm đất ven sông đóHồn có nghe chăng một tiếng đàn. Bài thơ đầu Truyện KiềuChu Mạnh Trinh Trời sá ghen đâu khách má hồngĐoạn trường nợ lắm phải đền xong,Hiếu tình chất nặng đôi vai gánh,Thân thế xoay quanh một giấc mòng,Giọt nước sông Tiền oan dễ trắngNgắm trăng hiên Thúy vẻ còn thiên chép để làm gương lạiTrời sá ghen đâu khách má hồng. Kiều bán mìnhNguyễn Khuyến Thằng bán tơ kia dở dói raLàm cho bận đến cụ Viên giàMuốn êm phải biện ba trăm lạngKhéo xếp nên liều một chiếc thoaĐón khách mượn màu son phấn mụBán mình chuộc lấy tội tình chaCó tiền việc ấy mà xong nhỉNgày trước làm quan cũng thế a? 👉Bên cạnh Những Câu Thơ Nói Về Truyện Kiều của Nguyễn Du chia sẻ đến bạn thơ Xuân Diệu Huy Cận ❤️️ Tuyển Tập Thơ Và Những Bí Ẩn Thơ Tình Nguyễn Du Tặng bạn tham khảo một số bài thơ tình nhẹ nhàng của nhà thơ Nguyễn Du đa tài. Độc Tiểu Thanh ký Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,Độc điếu song tiền nhất chỉ phấn hữu thần liên tử hậu,Văn chương vô mệnh luỵ phần kim hận sự thiên nan vấn,Phong vận kỳ oan ngã tự tri tam bách dư niên hậu,Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Long thành cầm giả ca Long thành giai nhân,Bất ký danh thiện huyền cầm,Cử thành chi nhân dĩ cầm đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất tại thiếu niên tằng nhất kiến,Giám Hồ hồ biên dạ khai thời tam thất chánh phương niên,Xuân phong yểm ánh đào hoa nhan hám thái tối nghi nhân,Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ như luơng phong độ tùng lâm,Thanh như chích hạc minh tại như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt giả mỹ mỹ bất tri quyện,Tận thị Trung Hoà ại Nội Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,Triệt dạ truy hoan bất tri phao hữu trịch tranh triền đầu,Nê thổ kim tiền thù thảo hoa ý khí lăng công hầu,Ngũ Lăng niên thiếu bất túc tương tam thập lục cung xuân,Hoán thủ Trường An vô giá tịch hồi đầu nhị thập niên,Tây Sơn bại hậu dư Nam xích Long Thành bất phục kiến,Hà huống thành trung ca vũ phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,Tịch trung ca kỹ giai niên mạt nhất nhân phát bán hoa,Nhan xú thần khô hình lược tạ tàn my bất sức trang,Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất khúc tân thanh ám lệ thuỳ,Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,Giám Hồ hồ biên tằng kiến quách suy di nhân sự cải,Kỷ độ tang điền biến thương Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,Ca vũ không lưu nhất nhân tức bách niên tằng kỷ thì,Thương tâm vãng sự lệ triêm Hà quy lai đầu tận bạch,Quái để giai nhân nhan sắc nhãn trừng trừng không tưởng tượng,Khả liên đối diện bất tương tri. 👉Bên cạnh Thơ Tình Nguyễn Du Tặng bạn trọn bộ Nắng Mới Lưu Trọng Lư ❤️️ Phân Tích Nội Dung Bài Thơ Bài Thơ Trao Duyên Của Nguyễn Du Gửi đến bạn một trích đoạn Trao duyên trong truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du dưới đây. Trích đoạn Trao duyên Cậy em, em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ đường đứt gánh tương tư,Keo loan chắp mối tơ thừa mặc emKể từ khi gặp chàng KimKhi ngày quạt ước, khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn haiNgày xuân em hãy còn dàiXót tình máu mủ thay lời nước nonChị dù thịt nát xương mònNgậm cười chín suối hãy còn thơm lâyChiếc thoa với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của chungMai sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím ra ngọn cỏ lá cây,Thấy hiu hiu gió thì hay chị còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc maiTrăm nghìn gửi lạy tình quân,Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôiPhận sao phận bạc như vôi!Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làngÔi Kim lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây 👉Ngoài Bài Thơ Trao Duyên Của Nguyễn Du tặng bạn Thơ Tình Nguyễn Bính Hay Nhất ❤️ Những Bài Thơ Nổi Tiếng Thơ Nguyễn Du Lớp 10 Cùng đọc qua trích đoạn thơ Chí Khí Anh Hùng của Nguyễn Du được học trong chương trình ngữ văn lớp 10. Trích đoạn Chí Khí Anh Hùng Nửa năm hương lửa đương nồngTrượng phu thoắt đã động lòng bốn phươngTrông vời trời bể mênh mangThanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rongNàng rằng Phận gái chữ tòngChàng đi thiếp cũng quyết lòng xin điTừ rằng Tâm phúc tương triSao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?Bao giờ mười vạn tinh binhTiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đườngLàm cho rõ mặt phi thườngBấy giờ ta sẽ rước nàng nghi giaBằng ngay bốn bể không nhàTheo càng thêm bận, biết là đi đâuĐành lòng chờ đó ít lâuChầy chăng là một năm sau vội lời dứt áo ra điGió mây bằng đã đến kì dặm khơi 👉Bên cạnh Thơ Nguyễn Du Lớp 10 tiết lộ đến bạn Thơ Tình Hàn Mạc Tử ❤️️ Chùm Thơ Về Tình Yêu Hay Nhất Trên đây là tuyển tập một số bài thơ ấn tượng của Đại thi hào Nguyễn Du vô cùng đặc sắc! Cảm ơn bạn đã tham khảo tại 11/9/11 Vịnh cụ Tiên Điền Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều Cảo thơm lần giở trước đèn Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa Trăm năm trong cõi người ta Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau Khen tài nhả ngọc phun châu Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình. Mấy lời kỳ cựu đinh ninh Rằng tài nên trọng mà tình nên thương Khen rằng giá đáng Thịnh Đường Thì trao giải nhất, chi nhường cho ai Gẫm âu người ấy, báu này Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào. Nặng vì chút nghĩa xưa sau Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay Thương vui bởi tại lòng này Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời Lòng thơ lai láng bồi hồi Tưởng người nên lại thấy người về đây... Viết trong một đêm cuối năm 1965, kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du đăng trên số báo Tết Nguyên đán năm Bính Ngọ Sáng 30 tết, Thi sĩ Nguyễn Bính từ trần 11/9/11 Lục bát Tiên Điền Yến Thanh Làng tôi củ lạc thắt ngang Quả dưa buộc dọc cho chàng đi thi Ông Nghè, ông Cử vinh quy Cũng như hạt lúa ra đi Tiên Điền Chả cầy cầm lấy bút nghiên Chõng tre lều rạ… Mà nên danh làng Lay phay mấy hạt mưa nam Ướt câu phường vải trai làng lâm ly Giọt mưa "ngọn tiểu khê" đi Thành sông, thành biển, thành gì cũng đây… Bão xô nghiêng mảnh ruộng gầy Nắng hun đến cái diệp cày cũng cong Lụt mang đi hết của đồng Bao nhiêu hạt mẩy đi không… một về Bảy đời Tiến sỹ, quan Nghè Áo thâm, guốc mộc, roi tre, seo cày Long đong chừng ấy năm rày Trong Kiều có mẹ, mẹ nay có Kiều 11/9/11 Bên mộ cụ Nguyễn Du Vương Trọng Tưởng rằng phận bạc ạm Tiên Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên iền nằm đây Ngẩng trời cao, cúi đất dày Cắn môi tay nắm bàn tay của mình Một vùng cồn bãi trống trênh Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề Hút tầm chẳng cánh hoa lê Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non Xạc xào lá cỏ héo hon Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi Lặng im bên nấm mộ rồi Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm Không cành để gọi tiếng chim Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời Không vầng cỏ ấm tay người Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu Thanh minh trong những câu Kiều Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân Phong trần còn để phong trần riêng ai Bao giờ cây súng rời vai Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên Trái tim lớn giữa thiên nhiên Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa... 11/9/11 Gặp Nguyễn Du trên sông đêm Nguyễn Việt Chiến Đêm mưa, gặp Nguyễn trên sông Đầu đội nón lá, chân không mang giày Ông ra câu cá sông này Một chiếc cần trúc phất đầy mưa đêm Ông dốc bầu rượu tưới lên Dòng sông mặt sách còn thiêm thiếp nằm Các người ngủ suốt trăm năm Nguồn thơ đã cạn, nguồn văn đã mòn Dậy đi thôi nước vẫn còn Sông vẫn đang chảy từ nguồn cội xa Sông là bạn học của ta Ta học sông cách phù sa đắp bồi Sông văn chảy dọc cuộc đời Nguyễn ngồi câu chữ dưới trời mưa đêm Có cô gái trẻ làng bên Ra sông giặt lụa vào đêm Nguyễn về Thế rồi đêm ấy bờ đê Mưa thì đã tạnh, trăng thề đã rơi Hình như họ đã thành đôi Sông thơ chảy suốt một trời Nguyễn Du "Truyện Kiều" ông viết trong mơ Ngoài sông tiếng đập lụa như vẫn còn Lụa như trăng giặt chẳng mòn Nàng Kiều đêm ấy vẫn còn trên sông Người lụa đã nhận ra ông Đầu đội nón lá, chân không mang giày Ông ra câu chữ sông này Một chiếc cần bút phất đầy trăng đêm 11/9/11 Mượn sóng Tiền Đường Nguyễn Vũ Tiềm Quê nhà nào thiếu gì sông nước Chẳng thiếu dòng sâu máu cuộn ngầu Sao không là sông Lam, sông Hương Sông nước mắt Phải mượn Tiền Đường gửi nỗi đau! Quê nhà nào thiếu gì tài sắc Hồng nhan chìm nổi dễ chưa nhiều? Sao không là Thị Kính, nàng Tô bạc phận Nước mắt phương Nam chảy ngược đến nàng Kiều? Tiếc như sông, để thương người như biển Từ hay Kim đều lận đận phong trần Lưỡi gươm cường bạo Hồ Tôn Hiến Có khi nào vắng bên cửa phòng văn! 11/9/11 Thăm mộ Nguyễn Du Hoàng trung Thông Thật kỳ lạ nơi Nguyễn Du nằm đó Cũng cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Cũng nấm mộ sè sè ngọn cỏ Trong trang Kiều tôi đọc dưới đèn khuya. Không phải tiết sụt sùi tháng bảy Ánh chiều hè man mác hàng dương Đỉnh Hồng Lĩnh soi dòng Lam cuộn chảy Tiếng cuốc đào lách cách giữa đồng nương. Tìm mộ Nguyễn Du như Kim Trọng tìm Kiều Qua nhịp cầu ai đó ghé trông theo. Giữa khoai lúa Người nằm giản dị Phảng phất hương bay trong gió chiều. Tiếng người hát xưa thấm đầy nước mắt Thấm vị đời cay đắng khổ đau Hai thế kỷ đi qua trong nấm đất Mấy kiếp người, mấy cuộc bể dâu. Đời nay đẹp gấp mấy lần thưở trước Giở trang Kiều còn rung động ý thơ. Thơ Người mãi sống cùng đất nước Dù mai sau, dù có bao giờ... 08 - 1963 11/9/11 Lang thang Tiên Điền Nguyễn Quốc Anh Cành xoè gai, lá tốt um tùm hoa mọc như rừng nên gọi là hoa dại loài hoa này trong thơ Kiều chưa có dẫu tóc Người bạc trắng tuổi ba mươi Rằng mai sau dù có bao giờ... hoa được chở che - dịu dàng nụ tím những cánh nhỏ ôm nhau kín đáo bàn tay không thể vô tình Hai trăm năm - bao cuộc phai tàn những huệ, hồng, lay-ơn, sen, cúc hoa dại tốt như rừng che lối cát với câu thơ còn lại - Mai sau... Nâng cành hoa che nắng trên đầu tôi đi tìm em đường dài lầm lụi thấp thoáng rừng hoa tóc Người trắng xoá Bỗng thấy lòng dịu bớt nỗi lang thang Tiên Điền, 30-9-1989 11/9/11 Nguyễn Du Trần Nhuận Minh Đến đâu con cũng gặp Người Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa Hạc Vàng một bóng lầu xa Hồ Nam úa nắng chiều tà hanh heo Tiệc to thường ở nơi nghèo Đồng ngô khô xác, mái lều gió lay Người xưa đi sứ qua đây Bùn lưng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi Cỏ cây, thành lũy khác rồi Hoàng Hà đã cạn, thơ Người vẫn sâu Thời nào thì cũng như nhau Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa Tiền Đường sầm sập đêm mưa Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu Lâm Tri bến cũ, cầu treo rực đèn Sắc tài chi để trời ghen Người đâu phải nước đánh phèn cho trong Cõi đời đâu cũng long đong Văn chương bạc phận, má hồng vô duyên Bời bời những cuộc đỏ đen Chính trường sấp mặt, đồng tiền xoay ngang Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi... Bâng khuâng con lại thấy Người Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa... Cố Cung, 21-9-1999 22/9/11 Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ Chế lan Viên Hai trăm năm ngày kỷ niệm Nguyễn Du Pháo sáng đốt trên nhà của Nguyễn Em có yên tâm để đọc Truyện Kiều Buổi trăng lửa chếch soi tiền tuyến? Gió mùa thu xào xạc hoa lau Anh qua nhà của Nguyễn chả dừng lâu Nhớ đến Nguyễn, ngước nhìn Hồng Lĩnh vậy Bến phà Vinh bom "cắt" hai đầu... Có ngờ đâu cồn cát trắng cây xanh Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng Bình Đất hỏa tuyến những chàng trai lớp bảy Lại ngâm Kiều sau một cuộc giao tranh Bốn phía ruộng đồng mái rạ bờ tre Trận địa nằm man mác giữa hương quê... Thơ dân tộc lẫn màu nâu dân dã Nên câu Kiều đồng vọng, họ còn nghe Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều Mẹ dám đâu quên cái thuở khổ nghèo Nhà ai đó lẩy Kiều, câu được, mất Mẹ nấp gốc dừa, nước mắt ràn theo "Thuyền ai thấp thoáng"... Đất trời về ta Nhật Lệ sông dài, đò mẹ lại qua Câu thơ Nguyễn cũng góp phần chống Mỹ Một mái chèo trong lửa đạn xông pha Hai trăm năm... ờ nhỉ... hai trăm năm Thuở vui buồn... Kiều sống giữa lòng dân Xưa tiếng võng ru hời đêm lạnh giá Nay cỏ mềm xanh nõn tận trời xuân Đất nước mình nghèo lắm, hỡi em yêu Cho đến giọt lệ cha ông cũng còn có ích với ta nhiều... Dẫu súng đạn nặng đường ra hỏa tuyến Đi đường dài, em giữ Truyện Kiều theo 22/9/11 Đọc Kiều I Chế Lan Viên Suốt mười năm tôi biếng đọc Nguyễn Du Quân thù ném bom xuống những làng quê ta đẹp nhất Kiều bó tròn trong những gói tản cư Bà ru cháu bằng ca dao sản xuất Thấy trăng lên tôi sợ ánh trăng ngời Tôi muốn luyện lòng tôi thành lửa sắt Không tiếc gì vừng trăng xẻ làm đôi Sợ bộ đội hành quân đi gặp giặc Mười năm qua, nay trở lại hòa bình Trăng ly biệt lại đoàn viên trước cửa Cảo thơm đặt trước đèn, tôi dở Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh Trạnh thương cô Kiều như đời dân tộc Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên Cành xuân phải trao tay khi nước mất Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương Tôi hiểu sao trong xà lim án chém Lý Tự Trọng trưa nao còn đọc trang Kiều Đảng dạy ta không thể đưa lòng đi theo Đảng Lại xa những gì dân tộc thương yêu Giá đem lòng tôi tôi đọc Nguyễn Du Có phải đã hiểu nhân dân mình thêm chút nữa? Hiểu giá khổ đau để thêm bừng ngọn lửa Nước mắt ta đem đổi máu quân thù Thôi vui lên! Hạnh phúc đến đây rồi Dẫu sống lại, cô Kiều không khổ nữa Cả nhân loại sắp đến ngày hội ngộ Nguyễn Du viết lại Kiều chắc sẽ có văn vui Ta cách xa nhau một tiếng nấc; một thôi đường Xưa Nguyễn khóc - thì nay ta đã hát Nhưng Truyện Kiều cứ để yên, không cần lau nước mắt Đời đang vui, đời sẽ viết thêm chương 22/9/11 Vịnh Thúy Kiều Nguyễn Công Trứ Đã biết má hồng thời phận bạc Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu Mà bướm chán ong chường cho đến thế? Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm! Bán mình trong bấy nhiêu năm Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai! Nghĩ đời mà ngán cho đời! Nguyễn Du là một tài năng thế kỷ của văn chương, ông đã tự kiến tạo nên thế giới nghệ thuật riêng trong các tác phẩm của mình, bằng sự tài hoa và tấm lòng nhân đạo, đại thi hào đã để lại cho hậu thế vô vàn những thi phẩm trác tuyệt. Sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, cuộc đời Nguyễn Du đi qua không biết bao nhiêu sóng gió nhưng chính nhờ những truân chuyên ấy đã hun đúc nên một tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn và tạo ra kiệt tác Truyện Kiều danh lưu bốn phía, tiếng truyền muôn đời. Nguyễn Du và tuổi thơ đầy mất mát đau thương trong gia đình quyền quý Đại thi hào tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên sinh năm Ất Dậu tại làng Tiên Đình, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quý tộc nhiều đời làm quan lớn dưới triều vua Lê – chúa Trịnh và có truyền thống yêu thích văn chương, sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Du đã khởi nguồn từ truyền thống gia đình. Nguyễn Du là viên ngọc quý của văn đàn việt Nam Thuở nhỏ, cha của ông là Nguyễn Nghiễm đã làm quan đến chức quan tể tướng, trong lần cùng Hoàng Nguyễn Phúc dẫn quân đi đánh chúa Nguyễn ở đàng Trong đã lâm vào trận bạo bệnh và từ trần trong lúc dưỡng thương ở quê nhà, khi ấy Nguyễn Du vừa lên chín tuổi. Đến năm mười hai tuổi, thân mẫu của ông là bà Trần Thị Tần cũng qua đời, Nguyễn Du từ thuở nhỏ đã chịu cảnh mồ côi cha mẹ và phải sống chung với người anh khác mẹ hơn ông 31 tuổi là Nguyễn Khản, đương là trấn thủ Sơn Tây. Sau đó không lâu, anh của Nguyễn Du bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý và phải chịu giam cầm ở nhà Châu quận công, ông được người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tấn nhận nuôi và đến ở tại Sơn Nam Hạ. Tuổi thơ của Nguyễn Du hầu như đều gắn liền với mất mát và đau thương, phải chứng kiến quá nhiều sự li biệt và cái chết của người thân đã phần nào ảnh hưởng sâu sắc đến ông cũng như đời thơ sau này. Mười năm gió bụi đã tạc nên một đời văn vĩ đại Được Đoàn Nguyễn Tấn nuôi ăn học, Nguyễn Du đã đỗ Tú tài trong kì thi Hương ở Sơn Nam năm Quý Mão rồi lấy Đoàn Thị Huệ, con gái quan Ngự Sử Đoàn Nguyễn Thục làm vợ và mở ra những năm tháng lưu lạc đầy sóng gió nơi đất Bắc. Mười năm gió bụi đã hun đúc nên một tài năng thế kỷ Nguyễn Du gọi mười năm đó là thập tải phong trần mười năm gió bụi, chính những năm tháng này đã làm nên tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn của nhà thơ để đến muôn đời sau khi đọc lại những áng thơ của đại thi hào, người ta vẫn luôn cảm nhận được như có máu nhỏ trên ngọn bút, nước mắt sa trên tờ giấy. Sống trong cảnh lang bạt nơi xứ lạ trong hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, Nguyễn Du cũng từng nhiều lần trầm mặc chua xót cho cuộc đời chính mình chưa làm nên công danh đã rơi vào ngõ cụt và thầm xót xa cho thảm kịch mà gia đình ông phải gánh chịu. “Mười năm trọn quê người nấn ná Nương quê người tóc đã điểm sương.” – U cư Trong mười năm lưu lạc ở quê vợ ấy, Nguyễn Du sống gần gũi với nhân dân và thấm thía bao nỗi cơ cực mà tầng lớp bình dân thấp cổ bé họng phải chịu đựng thời bấy giờ. Ông thấu cảm cho bao nỗi ấm lạnh của nhiều mảnh đời bất hạnh và chính những nỗi niềm ấy đã để lại trong tâm hồn đại thi hào những luồng sáng quý giá của tư tưởng sâu sắc. Về sau, nhờ mười năm gió bụi này mà Nguyễn Du đã cho ra đời không ít danh tác cảm động lòng người như Long thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh ký hay Văn tế thập đại chúng sinh. Tấm lòng cao cả của Nguyễn Du đã làm nên những kiệt tác để đời Mỗi tác phẩm của ông đều hướng về một thân phận bất hạnh nào đó, chính những nỗi thấu cảm mà đại thi hào dành cho con người đã hun đúc nên một tài năng của thế kỷ. Nỗi trăn trở lớn nhất của đại thi hào Ở thi phẩm Độc Tiểu Thanh ký, sau nỗi thấu cảm mà Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh, người phụ nữ tài sắc nhưng bạc mệnh sống cách ông ba thế kỷ dưới thời nhà Minh, đại thi hào đã tự vấn lòng mình rằng liệu sau ba trăm năm lẻ nữa liệu người đời có ai sẽ nhớ và thương cho nỗi đau của Nguyễn Du như ông đã từng thương cho Tiểu Thanh hay không. “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như.” – Độc Tiểu Thanh ký Sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, cuộc đời Nguyễn Du đi qua không biết bao thương hải tang điền nhưng đâu mới thực sự là nỗi đau lớn nhất cuộc đời ông? Đó là đau thương khi gặp cảnh gia đình ly tán, nỗi cảm thông day dứt với những kiếp người bất hạnh không chốn dung thân hay điều gì khác đã khiến đại thi hào phải trăn trở cả đời vẫn là một ẩn số ít ai biết đến. Người xưa quan niệm Tôi trung không thờ hai chúa, một quan thần trung quân ái quốc sẽ không thờ hai vua nhưng Nguyễn Du lại làm quan hai triều, trước là quan dưới nhà Lê, sau là quan của nhà Nguyễn. Thể xác Nguyễn Du nằm lại với đất nhưng linh hồn ông vẫn sống mãi trong lòng người Dù ở triều đại nào ông cũng làm quan lớn và cống hiến rất nhiều cho nước nhà nhưng điều này vẫn luôn là nỗi trăn trở day dứt trong lòng Nguyễn Du, đó là một niềm đau với chí làm trai của người nam nhi lúc đương thời. Gia tộc của ông cả sáu đời đều làm quan dưới triều vua Lê – chúa Trịnh, cha Nguyễn Du từng phò chúa Trịnh Doãn lên ngôi và mang quân đánh dẹp đất Bắc, với những chiến công hiển hách trải dài gần nghìn năm ấy của dòng tộc họ Nguyễn, dân gian đã lưu truyền lại bằng đôi câu thơ “Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước, nhà này hết quan.” Tuy nhiên, Ngàn Hống cây vẫn xanh, sông Rum nước vẫn chảy mà nhà họ Nguyễn đã đến ngày suy vong, Nguyễn Du sức hèn không làm nên chuyện lớn cứ thế nhìn gia tộc sụp đổ và từng người thân ngã xuống trong thảm kịch của chiến tranh. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi lập nên nhà Tây Sơn, ông đã có ý định chiêu mộ nhân tài nhà Lê về làm quan với mục đích hàn gắn những nứt vỡ của hai miền từ trăm năm nay. Tuy nhiên xã hội đương đời đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của Nho Giáo, vì thế những người tài của nhà Lê hoặc lui về ở ẩn hoặc liều mình trung hưng triều xưa. Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều lưu danh thiên cổ Đối với Nguyễn Du, ông lựa chọn cách đầu tiên, không màng thế sự khói lửa và cuộc đua tranh của những thế lực phong kiến, nhà thơ lui về ở ẩn và phó mặc cho số phận chỉ định tương lai đời mình. “Cũng liều nhắm mắt đưa chân Để xem con tạo xoay vần đến đâu.” – Truyện Kiều Tuy nhiên, cuối cùng nhân tài như Nguyễn Du cũng không thoát khỏi tầm mắt của Gia Long Nguyễn Ánh, nhà vua từng nhiều lần cho người mời ông về làm quan song đều bị từ chối, tuy nhiên không vì thế nhà Nguyễn mất đi kiên nhẫn, chỉ khi Nguyễn Du chấp nhận thì Gia Long mới cho dừng việc chiêu mộ. Dưới triều nhà Nguyễn, đại thi hào thăng quan tiến chức nhanh như diều gặp gió và từng nhiều lần được cử đi sứ sang nhà Thanh song trong lòng Nguyễn Du vẫn luôn chấp niệm nhà Lê và sáu đời quan huy hoàng của gia tộc mình. Chính điều này đã trở thành nỗi day dứt đeo bám ông suốt cuộc đời, cũng vì vậy mà khiến cho vua Nguyễn không hoàn toàn tin tưởng Nguyễn Du hay nói đúng hơn là Gia Long chưa bao giờ tín nhiệm tuyệt đối với các sĩ phu Bắc Hà vẫn luôn sục sôi trong lòng ý niệm trung hưng triều cũ. Đại thi hào Nguyễn Du và cuộc đời lắm nỗi truân chuyên sóng gió Dù trong lòng luôn chấp nhất với triều Lê nhưng Nguyễn Du vẫn hoàn thành đúng sứ mệnh của một quân thần nhà Nguyễn, tên tuổi của ông gắn liền với vô số công lao hiển hách đã giúp cho nước nhà này một phát triển. Ngoài tài văn chương thi phú thì những cống hiến cũng là điểm sáng nổi bật giúp Nguyễn Du trở thành Danh nhân văn hóa thế giới. Vì luôn sống với nỗi trăn trở khôn nguôi không người giãi bày ấy mà Nguyễn Du chưa bao giờ ngừng hy vọng sẽ có người hiểu ông, hậu thế ba trăm năm sau sẽ thấu cảm cho kiếp người tài hoa của Nguyễn Du như đại thi hào đã từng cảm thông cho Tiểu Thanh. Không cần đến ba thế kỷ sau cũng đã có rất nhiều thi sĩ hiện đại nói riêng và nhân dân nói chung thương xót ông, họ luôn thấu cảm cho kiếp người tài hoa nhưng lại bị trời xanh lưu đày đến cùng đường tuyệt lộ và phải chịu những nỗi đau không ai hiểu thấu. “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.” – Tố Hữu Nguyễn Du là người tài nhưng lại phải sống cả đời trong đau thương do những số phận mang lại, chính vì vậy mà tài hoa bạc mệnh đã trở thành đề tài chủ chốt trong thi ca của ông, đại thi hào thương người và cũng tự thương cho chính cuộc đời mình. Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều lưu danh thiên cổ Gắn liền với tên tuổi của đại thi hào lúc đương thời là danh tác Đoạn Trường Tân Thanh, đó là tiếng kêu thanh tân về một nỗi đau xé lòng của những phận người bạc mệnh còn vang vọng đến hậu thế trăm năm sau dưới cái tên Truyện Kiều. Nguyễn Du được công nhận là danh nhân văn hóa thế giời Tác phẩm bằng giá trị nhân văn sâu sắc đã vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và trở thành bản trường ca đi cùng năm tháng, đến thời điểm hiện tại, Truyện Kiều vẫn neo đậu vững chắc trong lòng hàng triệu người độc bởi sức sống mãnh liệt lay động hồn người. Mặc dù vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh nội dung của tác phẩm song khi bàn về nghệ thuật của Truyện Kiều, không ai có thể đưa ra lời chê trách nào bởi những thủ pháp, ngôn ngữ và giọng điệu mà Nguyễn Du sử dụng trong thi phẩm đã đạt đến trình độ mà hầu như không ai với tới. “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”. – Hoài Thanh Kiệt tác Truyện Kiều là ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt Nam, không chỉ ở nội dung nhân đạo mà còn là nghệ thuật đỉnh cao không tài năng nào đuổi kịp. Nguyễn Du là ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt nam Thi phẩm là tấm gương lớn đặt giữa xã hội đương thời để người đọc soi vào đó mà thấy được một xã hội suy đồi về đạo đức, hủ lậu trong nhân tính và đồng tiền xoay tròn trên lương tâm con người như thế nào, cũng chính từ sự suy thoái ấy mà biết bao phận người đã bị đẩy vào cùng đường tuyệt lộ. Truyện Kiều là một tiếng kêu than, một ước mơ về công lý và cũng là một cái nhìn bế tắc mà Nguyễn Du giành cho số phận của những nhân vật trong truyện cũng như cho chính cuộc đời mình. Ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng để lại cho đời sau không ít tác phẩm hay, điển hình như các tập thơ cả chữ Hán lẫn Nôm là Thanh Hiên thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm và rất nhiều thi phẩm khác. Tài năng của Nguyễn Du đã tạc vào lòng thế kỷ văn chương một dấu ấn không bao giờ phai nhạt, bằng tấm lòng nhân đạo cao cả và sự tài hoa của mình, đại thi hào đã đưa đất nước hóa thành văn. Diệu Uyển

câu thơ về nguyễn du